Giải Kavli và Shaw là Nobel về Thiên Văn
Lưu Lệ Hằng, tên Mỹ là Jane Luu, được nhận giải thưởng Kavli cùng
Jewitt và Brown,và giải thưởng Shaw cùng Jewitt, do khảo cứu thiên
thạch, sao chổi và sự hiện hữu của vành thiên thạch quanh mặt trời mà
Kuiper đề án năm 1951.
Giài thưởng Kavli, 1 triệu USD, phát 2 năm một lần cho ba ngành là
thiên văn, khoa học nano, và khoa học neuro, do chính vua Na Uy chủ tọa,
được mệnh danh là Nobel về các ngành khoa học này vì Nobel không nghĩ
tới khi thiết lập giải Nobel. Do Kavli Foundation tại Na Uy tài trợ bắt
đầu từ năm 2008, giải Kavli được sự hỗ trợ lựa chọn bởi 5 viện hàn lâm
quốc tế: Trung Quốc, Pháp, Đức, Mỹ, và Na Uy. (xem Wikipedia về Kavli).
Giải thưởng Shaw, đáng giá 1 triệu USD, do Shaw Foundation thành lập
năm 2002 tại Hong Kong, phát mỗi năm một lần, được mệnh danh là Nobel
Phương Đông, vinh danh những nhà khoa học còn sống đã có đóng góp đáng
kể vào các ngành thiên văn, sinh học, và toán học. Như vậy là về toán
học, nó to hơn giải Fields là giải 15 ngàn USD phát bốn năm một lần cho
các thiên tài toán học dưới 40 tuổi. Sự lựa chọn người trúng giải là do
một hội đồng thay đổi hằng năm và gồm các khoa học gia chuyên môn nổi
tiếng. Thống đốc Hong Kong (tự trị) là người chủ tọa lễ phát giải ngày
17 tháng 9 năm 2012. (Xem Wikipedia về Shaw và Fields.)
Lưu Lệ Hằng là người Việt gốc Bắc, sinh năm 1963 tại Saigon, tị nạn
qua Mỹ năm 1975 khi mới 11-12 tuổi. Theo tiểu sử do mình tự viết, Hằng
có một đời sống khá bình thường ngay trong thời buổi chiến tranh, cha
làm thông dịch viên tiếng Anh và tiếng Pháp, mẹ ở nhà, sống tại Saigon
có nhiều bà con họ hàng, học trường Pháp, không có khái niệm gì về chiến
tranh ngay cho tới khi phải di tản với một xách tay nhỏ vào tháng 4 năm
1975. Tới Mỹ, Hằng được người bảo trợ đặt tên cho dễ nhớ là Jane Luu,
sống 1 năm tại tiểu bang Kentucky với mẹ, chị và hai em nhờ người dì đã
có cơ ngơi sẵn tại Mỹ che chở trong khi cha ở lại California đi học và
tìm việc. Khi cha của Hằng có việc, cả nhà tới ở Ventura ngoại ô Los
Angeles, cha làm kế toán, mẹ làm việc lắp ráp điện tử.
Hằng học tiếng Anh trôi chẩy từ năm đầu, theo học các lớp trung học
một cách thoải mái và cho là quá dễ, được hiệu trưởng “mời” nhẩy lớp 8
lên lớp 9, và khi đậu ra trường lớp 12 thì đứng thủ khoa. Với thành tích
xuất sắc, Hằng được nhiều trường giỏi nhất ở Mỹ nhận học, như
Princeton, Massachussetts Institute of Technology (MIT), Stanford, và cô
đã chọn Stanford (gần San Francisco) vì trường đó cho học bổng nhiều
nhất. Ban đầu học ngành kỹ sư cơ khí do cha đề nghị, nhưng sau đổi sang
vật lý vì thấy nó căn bản hơn. Sau khi đậu cử nhân, Hằng làm việc hè tại
Jet Propulsion Laboratory của NASA (National Aeronautics and Space
Administration –Cơ quan không gian và vũ trụ Mỹ) và rất ấn tượng với các
hình ảnh chi tiết của các hành tinh treo trên tường hành lang. Cô đã
quyết định học cao học về thiên văn và nộp đơn xin học tại MIT. Tại đó,
Hằng có cơ may gặp giáo sư trẻ tuổi (sinh năm 1958) gốc Anh là David
Jewitt, người đang khảo cứu nguồn gốc các thiên thể có chu kỳ ngắn như
sao chổi trong thái dương hệ. Với căn bản vững chãi và một ý chí kiên
trì, Lưu (nay gọi tên gia đình họ của Hằng cho tương đương với các đồng
sự) và Jewitt đã làm việc đêm ngày theo đuổi đề án của nhà thiên văn Hà
Lan Kuiper đưa ra từ năm 1951, là mặt trời phải có một vành thiên thạch.
Họ có niềm tin là ngoài Pluto không thể chỉ có khoảng không, vì NASA đã
dùng vệ tinh IRAS chụp được một vành thiên thạch quanh sao Vega.
Lưu lấy bằng tiến sĩ năm 1990 và đã nổi tiếng về các khảo cứu sao
chổi. Năm 1991 hội Thiên Văn Mỹ trao giải thưởng Cannon cho Lưu và đặt
tên một thiên thạch do Lưu khảo cứu là Asteroid 5430 Luu. Lưu được nhận
làm khảo cứu thiên văn tại Harvard và vẫn tiếp tục công việc khảo cứu
vành Kuiper với Jewitt lúc đó đã làm giáo sư tại Hawaii.
Sau 5 năm ròng rã, dùng các phương tiện tại MIT, Harvard, Kitt Peak
(Arizona) và Mauna Kea (Hawaii), cùng là nhờ các dụng cụ quan sát nhậy
bén mới gọi là CCD (charge-coupled devices), năm 1992 Jewitt và Luu tìm
ra được thiên thạch 1992 QB1 đường kính 280 km (bằng 1/8 Pluto) mà họ
gọi là Smiley theo tiểu thuyết trinh thám của John LeCarre’. Khám phá
này, rồi 20 khám phá thêm sau đó, và cả trăm khám phá khác do cộng đồng
thiên văn cộng hưởng, đã chứng minh sự hiện hữu của vành Kuiper, và mở
đầu cho một kỷ nguyên mới về khoa học Thái Dương Hệ cùng là thuyết khai
thiên lập địa.
Sau khám phá của Jewitt và Luu, Michael Brown (sinh năm 1965) được
NASA bảo trợ một chương trình lớn tại Jet Propulsion Laboratory tìm các
thiên thạch và hình dung vành Kuiper bằng cách chia không gian làm 10
ngàn ô quan sát. Năm 2005 Brown tìm ra thiên thạch Eris to bằng Pluto
(2300 km), khiến Hội Thiên Văn Quốc Tế phải lập lại bảng các hành tinh,
chỉ coi Pluto là một Hành Tinh Lùn (Dwarf Planet) như Eris, mà không
phải là hành tinh giống Neptune hoặc trái đất. Và người ta biết rằng
vành Kuiper có tới cả tỉ thiên thạch mà tổng cộng không nặng quá 6 lần
trái đất, trong đó có cả chục ngàn thiên thạch to hơn 100 km. Các thiên
thạch (hay thiên sơn) này luân lưu do Neptune (Hải Vương Tinh) điều
hành. Vị nào chuyển động bất thường thì bị hút vào không phận của các
hành tinh và trở thành sao chổi tiến sát mặt trời và đôi khi đụng các
hành tinh như Jupiter (Thiên Vương Tinh) hoặc sao Hỏa hoặc trái đất. Mới
đây vài năm, 5 sao chổi đã đâm vào Jupiter với sức nổ gấp cả triệu lần
bom nguyên tử 20 kiloton nổ năm 1945 tại Hiroshima. Lịch sử trái đất đã
có nhiều thiên sơn đụng phải, có lần làm mọi sinh vật chết hết vì tro
bụi bao trùm khí quyển nhiều năm che lấp ánh sáng mặt trời. Tương lai
một cuộc tận thế của loài người như vậy là có xác suất, và người ta đang
nghĩ cách đo lường trước và ngăn ngừa bằng cách dùng bom nguyên tử hoặc
phương pháp khác để đánh lạc sao chổi đó khi nó trên đường có thể đụng
vào trái đất.
Từ năm 1992 tới 2001, Lưu đã khảo cứu và giảng dạy tại Berkeley,
Stanford, Harvard, và Leiden (Hà Lan). Từ 2001 tới nay Lưu làm kỹ sư
thiết bị tại Lincoln Laboratory của MIT vì không thích không khí ganh
đua “ghế” tại các đại học, trong khi đó Lincoln Laboratory có ngân sách
của chính phủ khảo cứu các thiết bị phòng ngừa khủng bố.
Lưu chia tiền thưởng Kavli 1 triệu USD với Jewitt và Brown, và chia
tiền thưởng Shaw 1 triệu USD với Jewitt. Lưu có chồng tên là Hoogerwerf,
một nhà thiên văn người Hà Lan, và một con trai 6 tuổi. Hiện gia đình
Lưu sống tại Lexington, Massachusetts, gần đại học Harvard và MIT.
Với hai giải thưởng tầm cỡ Nobel về thiên văn, Lưu có thể sẽ không
phải lo về các “tranh giành các ghế” trong đại học nữa (khi bỏ đi làm kỹ
sư thiết bị,) mà có thể sẽ là một giáo sư thực thụ tại một đại học có
chương trình thiên văn nổi tiếng như Harvard, MIT, Hawaii, Arizona hoặc
California Institute of Technology (Caltech).
Vài Cảm Nghĩ về Sự Kiện
Lưu Lệ Hằng trở thành một trong số người Việt đóng góp sáng chói cho
khoa học như Ngô Bảo Châu, Võ Đình Tuấn, Nguyễn Hữu Xương, Nguyễn Xuân
Vinh, Dương Nguyệt Ánh. Và họ cũng làm người Việt vẻ vang trên trường
quốc tế như nhiều thiên tài khác trong các ngành nghệ thuật, chính trị,
kinh tế; ví dụ Đặng Thái Sơn, Đinh Đồng Việt, Philip Roesler, Carol
Huynh, Thanh Truong (xem Wikipedia về Famous Vietnamese Names). Tôi cảm
thấy rất tự hào về người Việt.
Tuy nhiên, lòng tự hào của tôi bị hãm lại bởi một thực tế rất phũ
phàng. Ta có thực sự nổi trội trên thế giới không? Các nước khác cùng
một quá khứ giống ta như Nhật, Hàn, Đài Loan, Singapore… có được những
thành tích đáng phục đó không? Tại sao với mỗi tin thành công của một
người Việt lai có cả trăm tin thất bại-đau khổ của người Việt khác? Tại
sao phần lớn các người thành công đột trội trên lại là nhờ học và làm
việc tại ngoại quốc và sẽ không bao giờ trở lại làm việc toàn thời gian
tại Việt Nam?
Nhìn vào các thống kê của các ngành nghề, tôi thấy người Việt cũng
chẳng hơn ai, còn thua nhiều dân tộc khác là đằng khác, nhưng cái thua
này –ít giải thưởng, ít sáng chế, ít giầu có—là vì một lý do rất dễ
hiểu: Cơ chế và lãnh đạo đất nước Việt Nam tồi quá, không những ngày nay
mà trong cả chiều dài của lịch sử. Lịch sử của Việt Nam là cả ngàn năm
chiến tranh chống ngoại xâm và huynh đệ tương tàn, chứ không phải là một
lịch sử hòa bình gây hạnh phúc cho người dân. Lãnh đạo ta làm những
việc mà họ chưa hề được học đến nơi đến chốn theo chiều hướng văn minh,
và họ không có đủ trí huệ để không ham quyền cố vị và chiêu tụ người tài
làm tốt cho xã hội. Cơ chế của ta cóp nhặt mỗi nơi một chút nhưng bắt
chước hoài cũng không thông rồi còn nói làm “theo cách Việt Nam”. Hèn
chi hỏi 1000 người trong nước có hạnh phúc sung sướng không thì phải có
đến trên 900 người có phàn nàn này nọ. Hèn chi học sinh ra trường ít có
việc làm để thực thi những điều đã học. Và hèn chi muốn học và thành
nghề tới nơi tới chốn thì phải ra nước ngoài, Cũng hèn chi những người
đã thành đạt tại nước ngoài thì ít muốn về Việt Nam làm việc vì không
những lương ít, phương tiện ít, mà còn gặp phải những cản trở vô lý về
cơ chế.
Tôi thấy có tâm trạng giống như Phan Chu Trinh 100 năm về trước:
Người mình đã vụng về trăm thức,
Lại khoe rằng “sĩ nhất tứ dân”;
Người khanh tướng, kẻ tấn thân,
Trăm nghề hỏi có trong thân nghề nào?
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân…
No comments:
Post a Comment