Nhạc sĩ Tô Hải
…Tưởng rằng mình đã hết ý để nói về cái ngày “tưởng rằng vui” 30
tháng 4 này. Lý do: Năm nào mình cũng có viết về nó với những ý mới.
Nhớ lại suốt 5 năm về già vui thú với bờ-nốc-bờ-niếc, mình đã từng
vạch trần ra cái âm mưu áp đặt bằng võ lực lên toàn thế giới (mà thành
công một bước mới là trên mảnh đất chữ S), một chế độ mà tất cả mọi con
người đều bị biến thành một “trại súc vật”, sống thế nào? làm thế nào?
vui buồn, yêu, ghét ra sao?… thậm chí cả chết kiểu nào cũng đều do một
nhóm người ưu tú nhất mang tên Đảng Cộng sản quyết định!
1- Mình còn nhớ mình đã ghi lại cái cảnh ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn, dặn dò bọn văn nghệ sỹ chúng mình khi
thẳng đường bay thẳng vô Nam: Bằng một cử chỉ hung hăng, ông hùng hồn
giơ hai nắm đấm trước ngực đấm đấm vào nhau mà nói: “Cuộc chiến đấu ai
thắng ai hãy tạm dừng ở đây! Chúng ta cần có thời gian để củng cố lực
luợng, cải tạo bọn ngụy và… nếu có sức chúng ta chẳng ngại gì không…
tiến thẳng tới New Delhi!”
2- Mình cũng là người đã “sợ” cái chuyện trắng trợn
tuyên bố và kể công lao to lớn của mấy ông trùm cộng sản khi huênh hoang
với toàn thế giới “Chính nhờ có họ, mà một nước nhỏ đã đánh thắng ba đế
quốc to” trong khi đó chỉ cách đó không lâu họ vẫn xưng xưng: “Không có
chuyện Miền Bắc xâm lược Miền Nam”. Và họ cũng không muốn hoặc không đủ
khả năng hiểu nổi câu đối đáp của vị Thủ tướng Thái Lan là: “Nước tôi hân hạnh vì một nước nhỏ mà KHÔNG PHẢI ĐÁNH NHAU VỐI MỘT NƯỚC TO NÀO…” nghĩa là gì v.v và v.v.
3- Mình cũng đã vạch thẳng thừng ra cái sự “miền Bắc
được giải phóng” cả về sinh hoạt lẫn tư tưởng bằng những câu chuyện:
miền Bắc như hàng triệu cái lò xo lâu nay bị đè ép, bỗng bung ra và
không có một sức mạnh nào có thể ngăn cản được. Bằng những câu chuyện
sớm “tự cải tạo” từ cách suy nghĩ đến cách sống và làm ăn, người miền
Bắc mà 99,9% đều có người thân hy sinh cho cách mạng, đều có người là đảng viên, lao đầu vào những thứ phồn vinh giả tạo như những con thiêu thân,… kệ ai cao đạo giáo dục “cảnh giác, giữ vững lập trường”!!!
Trong khi ở miền Nam, người ta cấm “nhạc vàng nhạc ngụy”, đốt sách ngụy
thì miền Bắc, oang oang ngày đêm những Giao Linh, Khánh Ly,… sách “phản
động đồi trụy” cứ ùn ùn kéo ra Bắc, làm mê say cả mọi lớp người lâu nay
chỉ biết ăn có món văn nghệ tuyên truyền cho Đảng!
4- Mình cũng vạch ra cái ngu cực kỳ do tính “kiêu
binh hỗn xược” của bọn tưởng rằng mình thắng cuộc thì muốn nói gì thì
nói, làm gì thì làm khi vừa tuyên bố “Mọi người Việt Nam đều là người
chiến thắng” thì ngay hôm sau đánh lừa cả gần triệu sĩ quan và cán bộ
cao cấp “ngụy” mang 20 ngày gạo “đi học tập” rồi giam không án không hạn
tù trong các trại gọi là cải tạo khắp nơi thâm sơn cùng cốc rừng sâu
nước độc suốt cả chục năm trời hoặc hơn… khiến không ít người bỏ xác nơi
nào chả ai biết hoặc nếu sống sót trở về thì có đi H.O. cũng chỉ còn là
những thân xác ốm yếu vì bị đọa đày cho thân tàn ma dại! Kèm theo là cả
chục triệu những con người là vợ con, người thân,… của họ bị mang hận
thù suốt năm này qua tháng khác vì bị cưỡng bức đi kinh tế mới, hoặc
đành liều mạng vượt biên, người đến nơi nào đó làm “quê hương thứ hai”,
người bỏ xác nơi đại dương, đến cái xương cũng không còn đường về quê
mẹ!
Trong khi đó, tối tối, con em họ phải tập trung để “bị” học hát: “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” hoặc “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ”!
Mình đã chửi thẳng những thằng “bên thắng cuộc” cho là “các cháu
MiềnNamkhoanh tay, cúi đầu chào khách là… ảnh hưởng của chế độ phong
kiến” (!?) cũng như bọn chủ trương phổ biến những bài hát chiến thắng
huênh hoang là những bọn cực kỳ ngu xuẩn và hoàn toàn không có một xu
tâm lý học!
Riêng về mặt văn hóa văn nghệ, đã hơn một lần mình đã nói thẳng cái
“hơn hẳn” của văn nghệ sỹ, trí thức miền Nam chân chính. Đó là:
a- Họ hoàn toàn tự do, muốn viết gì thì viết, muốn theo trường phái
nào thì theo, hoàn toàn tự do sáng tác kể cả viết những gì mà chính
quyền không mong muốn…
b- Họ được tự do tiếp xúc với đủ mọi thứ văn hóa nghệ thuật nước ngoài kể cả với những tác phầm của phe cộng sản.
c- Đa số đều thành thạo 1 hoặc 2 ngoại ngữ giúp họ sớm tiếp cận với
những gì là văn minh tiến bộ nhất của loài người. Trái lại văn nhân nghệ
sỹ miền Bắc, trừ những người theo Tây học trước 45, hầu hết đều… mù
ngoại ngữ nên chỉ biết Shakespeare, Balzac,… qua bản dịch. Còn những tác
phẩm hiện đại thì chỉ “nghe mấy anh văn nghệ có quyền” phán rằng là
“Camus, Sartre… nó phản động thế này,…thế kia,…” nên rất chi là nhục nhã
khi tự mình tổ chức ra cái hội nghị lên án “văn hóa thực dân mới” giữa
cái đất Sài Gòn đầy những trí thức am hiểu, sành Triết Tây lẫn những fan
của Sartre của Camus!
Điều tự sỉ nhục này mình đã lấy làm cái cớ để động viên cả nhà Phạm
Duy còn bị kẹt lại Sài Gòn (mà trực tiếp đến với mình là Phạm Đình
Chương và Duy Quang) là: “Hãy tìm đường mà cuốn xéo nhanh kẻo có ngày
mất mạng vì phản ứng với cái bọn “kiêu binh văn hóa cộng sản” này”. Và
tất cả họ đã nghe theo mình…
Cái ĐƯỢC và MẤT của 30 tháng 4, Nguyễn Khải, trên giường bệnh đã nói
thẳng không ngại ngùng (vốn có theo bản tính thận trọng) là: Miền Bắc đã
cho tôi ĐỘC LẬP, Miền Namđã cho tôi TỰ DO… Còn tớ thì lại: CHÍNH NHỜ MIỀN NAM NÀY MÀ MÌNH ĐÃ TÌM ĐƯỢC Ý NGHĨA CỦA CẢ ĐỘC LẬP LẪN TỰ DO.
5- Cũng chính mình đã đưa ra cái ý kiến về câu “Có
triệu người vui cũng có triệu người buồn“ của ông Võ Văn Kiệt là: “Bề
trên”, “Kẻ cả” và cực kỳ… “chủ quan” bằng những lý lẽ để “bổ sung”
(thực chất là để “bác bỏ”).
Rằng thì là: “Chẳng có cái tỷ lệ chung chung, bằng nhau đó đâu!” Sự
thật thì cái ngày 30 tháng 4 đó có mở ra một vài hướng sống mới cho
riêng dân miền Bắc, cả 30 năm sống kiếp ngựa trâu nhưng lại là bắt đầu
cả một giai đoạn cực khổ tủi nhục, bất công chưa từng thấy cho toàn thể
nhân dân miền Nam!
Đặc biệt khi chủ nghĩa cộng sản, sau khi ra mặt công khai lãnh đạo toàn diện
cả cái nước “xuống hố cả nút” này rồi… thoái hóa tới mức “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa???” thì… mọi mặt xã hội của cả hai
miền đều bị dìm vào các cuộc đại… “loạn”… Vô tướng bất tài, vô lương
tâm, vô học… đã trở thành những ông chủ thực sự từ xã đến trung ương, đã
nắm tất tần tật mọi chức vụ quyết định sự sinh tồn của đất nước, kể cả…
bán hay không bán nước!!!
Vậy mà cứ đến ngày 30 tháng 4 đến họ lại không ngớt dùng bộ máy khổng
lồ tuyên truyền của họ cao giọng huênh hoang, tăng cường chửi Mỹ, chửi
“ngụy”. Dù có đôi chút hạn chế hơn trước (tỉ như thỉnh thoảng có nhắc
tới cái tên Việt Nam Cộng hòa, “ông” naỳ, “ông” kia… chứ không xách mé,
hỗn xược, khinh người như trước) nhưng vẫn không ngớt phịa ra các thứ
chiến công tưởng tượng như “giải phóng Trường Sa”, như “tiến đánh dinh
Độc Lập”, kể cả “địa đạo trại Davis”, những chuyện chẳng ai biết, chẳng
ai làm chứng những ngày 30 tháng tư trước bao giờ!… Cứ như đánh đâu
thắng đấy nhưng sự thật thì như mình đã viết: Đây là một cuộc đá bóng mà một bên đã ra khỏi bãi vì không đá nữa! Vậy có có đá với ai đâu mà “đá thắng” cơ chứ!?
Tóm lại, đã qua 38 năm cái 30 tháng 4, mỗi lần nó đến, mình chỉ buồn chứ chẳng vui chỉ vì:
Mỗi lần nó đến lại gợi lại nỗi phân chia đôi ngả của cả một dân tộc
ViệtNam, trong đó có gia đình mình: Cả 6 đứa em đều không sao đàng hoàng
về thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Còn thằng anh cả duy nhất còn ở lại
ViệtNamnày thì chưa chắc lúc chết được đặt nắm tro tàn cạnh Bố Mẹ; anh
em, con cháu họ Tô chắc vẫn chỉ là một giấc mơ khó trở thành sự thực!
Ôi! 30 tháng Tư, mình là một trong những kẻ đau nhất vì MẤT nhiều nhất!
Mỗi lần nó đến lại như khoét sâu vào những nỗi đau của cả triệu triệu
con người, vì nó mà con mất cha, vợ mất chồng, dân mất nước để cho một
lũ chẳng một ngày xung phong cầm súng, chẳng một ngày đánh Pháp, đuổi
Nhật, thậm chí cả chẳng một ngày “chống Mỹ xâm lược” bỗng dưng ăn trên
ngồi trốc, làm vua hiểu dụ thần dân những điều vô lý, vô lẽ, vô luân… mà
vẫn dám vỗ ngực là cộng sản, là “chủ tập thể” của đất đai, là không có
tam tứ quyền phân lập, phân liệt gì sất… nào là tao có quyền lãnh đạo
tuyệt đối muôn năm đất nước này, là quân đội do tao dựng lập ra nên phải
phục vụ tao!, rằng… tao nhất định sẽ lên… thiên đường! Kẻ nào phản đối,
tao cho vô tù hết! Nhà tù 30 tháng Tư nào cũng được mở rộng để khoan
hồng cho những tên cướp, giết, hiếp, nhưng cũng để rộng chỗ cho những
người “thoái hóa” như Phương Uyên, Điếu Cày, Nguyễn Tiến Trung… và tất
cả những tên lưu manh trí thức, cơ hội chính trị…!
Rõ ràng, những kẻ kiêu binh ăn mày dĩ vãng tanh mùi máu và đẫm mặn nước mắt đang ngày càng gây thêm thù, thêm oán…
Rõ ràng 30 tháng 4 không hề làm cho họ phải giật mình soi lại xem vì
sao từ những giới trẻ như nhóm sinh viên luật đến lớp già như những trí
thức, đảng viên lão thành lại ngày càng đông người ra mặt công khai lên
tiếng phản đối mọi chủ trương đường lối phản nước hại dân của những đàn
sâu phá hoại đất nước cực kỳ…
Và mình, đến hôm nay, nhân ngày 30 tháng 4/2013, cũng nhân thể nhắc
các bạn gần xa đọc lại trên to-hai.blogspot.com những gì mình đã tóm tắt
lại ở trên mà tuyên bố rằng:
CHÍNH NGÀY 30 THÁNG 4 NÀY LÀ NGÀY ĐÃ GIẢI PHÓNG CHO TÔI, MỘT CÔNG DÂN
MIỀN BẮC, KHỎI KIẾP NÔ LỆ MỘT THỨ TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ NGOẠI LAI CỰC KỲ
PHẢN ĐỘNG VÀ SẼ NGUYỀN GÓP SỨC ĐỂ SỚM CHÔN VÙI NÓ CÙNG VỚI NHỮNG KẺ SỐNG
BÁM VÀO NÓ TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CÒN LẠI CỦA CUỘC ĐỜI!
Hot news from Vietnam | Tin nóng Việt Nam | Vietnam daily post | Vietnam daily news | TRANG CHU DOC BAO TRUC TUYEN. Đọc báo | Tin tức | Tin nóng | Tin hot | Ngoi sao | Bong da | Website Tin tức Điện tử | Doc Bao Vem
Thursday, May 2, 2013
Bầy sâu
Các
bạn thân mến! Hiện nay đất nước ta đang trong thời gian suy sụp nghiêm
trọng cũng chỉ vì bầy sâu chuyên đục khoét và loài đỉa chuyên hút máu
người kia. Bọn chúng thi nhau rút và hút không một chút thương tiếc
nguồn tài nguyên của nước ta. Trên thực tế đất nước ta tuy nhỏ nhưng mà
mang tiếng là đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhưng
đó cũng chỉ là cái vỏ bề ngoài vì bên trong đã bị bọn chúng đục khoét và
bào mòn làm cho sản vật của nước ta ngày càng khan hiếm cũng bởi sự
lười nhác của chúng.
Bọn chúng không chịu làm, không chịu lao động biến những nguyên liệu thô
ấy trở nên tinh xảo hơn, tinh vi hơn để làm lợi cho quốc gia. Mà bọn
chúng chỉ biết cho chính bản thân mình vì vậy mà bọn chúng cứ đục và cứ
khoét mặc kệ cho đất nước ta thế nào, dường như bọn chúng muốn biến đất
nước ta từ một chiếc là xanh tươi trở thành một chiếc lá xơ xác không
còn sức sống. Cũng chính vì được ăn nhiều nên bọn chúng ngày càng béo,
ngày càng bành trướng hơn, ngày càng trắng trợn hơn. Bây giờ bọn chúng
là một nạn dịch là một loài virut rất ghê gớm có sức lan tỏa rất nhanh,
bọn chúng không phải là loài sâu bình thường mà bọn chúng phải được so
sánh như nạn dịch H5N1 mà khéo còn có thể hơn ấy chứ. Nạn dịch H5N1 thì
hiện tại chúng ta có thể phòng & chống, còn bọn chúng thì hiện tại
chưa có thuốc kháng sinh nào có đủ sức để chống lại, và cũng chưa có
loài chim nào đủ to để bắt chúng. Vì vậy bọn chúng ngày càng hoành hành
hại dân, hại nước.
Vì thế các bạn à! Chỉ có sự đoàn kết đó mới chính sức mạnh to lớn để
chống lại bọn chúng, tuy chúng ta chỉ là người bình thường nhưng khi
đoàn kết thì chúng ta sẽ là một con chim lớn và mạnh, một người chúng ta
không nghĩ ra cách nhưng tôi tin rằng với số đông thì chúng ta sẽ có
nhiều cách, nhiều phương án để chống lại bọn chúng. Cho dù bọn chúng có
mạnh cỡ nào đi chăng nữa thì bọn chúng vẫn có điểm yếu bởi lẽ trên cuộc
sống này không có gì là hoàn hảo. Tôi cũng rất tin vào thuyết nhân quả “có nhân thì ắt sẽ có quả”, “gieo gió thì gặp bão”.
Người xưa trông tựa thú hoang,
Cái tâm thánh thiện sáng trong giữa đời.
Người nay đúng thật dáng người,
Lòng lang dạ sói có thừa đấy thôi!
Tâm tốt, hình dáng khó coi,
Rõ tâm, ai xét bề ngoài làm chi?
Mẽ ngoài dầu có uy nghi,
Nhưng tâm đen tối, còn gì mà mong?
Chúng ta phải kịp thời ngăn chặn bầy sâu này đừng để cho bọn chúng lộng
hành, nếu không bọn chúng sẽ đục khoét sạch thì bọn chúng sẽ không
thương tiếc gì mảnh đất này, mà mảy may bán mảnh đất này cho những ông
lớn đang có dã tâm xâm chiếm đất nước ta thành thuộc địa của chúng. Cuộc
sống của chúng ta những người dân bình thường, không tiền, không thế
đang bị đe dọa bởi bầy sâu ấy. Bọn chúng có quyền, có thế lực nên bọn
chúng đã chuẩn bị cho mình một con đường rút lui. Còn chúng ta thì sao
đây, chúng ta sẽ phải chờ chết sao, phải ngồi đợi bọn chúng cứ từ từ bán
từng mảnh đất của cha ông chúng ta để lại. Các vua Hùng đã có công giữ
nước thì chúng ta những người dân, những con dân của đất Việt chúng ta
phải cùng nhau đoàn kết mà giữ lấy nước. Vậy với địa vị như chúng ta
hiện nay thì có thể làm gì đây? Đây quả nhiên là bài toán khó? Nhưng
chúng ta phải tìm cách mà giải ra. Chúng ta phải họp nhau lại và bàn bạc
cách giải quyết vấn đề. Đó sẽ là cách tốt nhất.
“Làm quan vun vén riêng tư,
Mất quan mới hối, ngồi thừ thở ra.
Lúc giàu, thỏa sức tiêu pha,
Đến khi nghèo túng, xót xa làm gì!
Đắc thế chẳng chút nể vì,
Phạm lỗi mới hối, "thế" đi mất rồi!
Việc đáng học, cứ buông xuôi,
Đến khi gặp việc, làm hư lại buồn.
Khi say, lảm nhảm ngông cuồng,
Tỉnh ra lại hối hận suông, lộn giờ!
Lúc yên chẳng chịu nghỉ ngơi,
Bê tha bệnh hoạn, hối thời vô phương.”
Đổi tiền, tin đồn hay sự thật?
Đổi tiền theo kiểu CHXHCNVN
Tính cho tới nay Việt Nam đã có tổng cộng 5 lần đổi tiền, hai lần tại
miền Bắc và ba lần tại miền Nam. Tại miền Bắc qua hai lần đổi tiền hầu
như không có một cú sốc mạnh mẽ nào trong xã hội vì tình trạng phôi thai
của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dẫn tới việc thành lập Ngân hàng
Nhà nước năm 1951. Đồng tiền mới này thay thế cho giấy bạc tài chánh
trước đó với tỷ giá 1 đồng năm 1951 bằng 100 đồng của năm 1946.
Lần đổi tiền thứ hai xảy ra vào năm 1959, lần này tỷ giá tăng gấp 10
lần. 1 đồng của năm 1959 bằng 1.000 của năm 1951. Hai cuộc đổi tiền này
cho thấy sự xuống giá của đồng bạc năm 1946 chỉ trong vòng 13 năm đã bị
NHNN làm mất giá trị hoán đổi 1.000 lần.
Cho tới năm 1975 thì cuộc đổi tiền theo một mục đích khác: Thủ tiêu đồng
tiền miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên đồng tiền mới lại có tình trạng phân
chia vị trí địa lý rất khó hiểu. Khi Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất
nhưng từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào, tờ 500 đồng miền Nam có tỷ giá
bằng 1 đồng tiền giải phóng trong khi đó từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở ra
Bắc thì 1.000 đồng tiền miền Nam lại chỉ bằng 3 đồng tiền giải phóng.
Có lẽ mục đích phân chia địa lý này nhằm mở đường cho lần đổi tiền thứ 3
vào ba năm sau nhằm mục tiêu tấn công tư sản mà danh xưng chính thức là
“cải tạo công thương nghiệp” ở miền Nam. Lần đổi tiền thứ hai đã đảo
lộn toàn xã hội, không biết bao nhiêu gia đình tan nát bởi lần đổi tiền
này để đến khi cuộc đổi tiền lần thứ ba xảy ra vào năm 1985 thì mọi sự
không còn lạ lùng với người dân nữa.
Rất nhiều gia đình không còn nhiều tiền để mà đổi vì hai lần trước hạn
mức số tiền được đổi đã cào bằng tài sản tiền mặt của mọi người gần như
bằng nhau. Kinh nghiệm đã buộc người dân mua vàng để dành khi cần đến.
Đồng tiền do vậy không còn lưu hành nhiều trong nền kinh tế để nhiều năm
sau đó cả nước chìm vào khủng hoảng kinh tế dẫn đến việc đổi mới để
sống còn.
Bây giờ là năm 2013, hai mươi tám năm sau lần đồi tiền thứ ba tại Miền
Nam lại rộ lên tin đổi tiền và tin đồn ấy râm ran lúc mạnh lúc yếu nhưng
không hề tắt.
Bà Phạm Chi Lan một chuyên gia kinh tế từng làm cố vấn cho văn
phòng Thủ tướng Phan Văn Khải cho biết nhận xét của bà qua những tin đồn
đổi tiền lần này:
Riêng về tin đồn đổi tiền thì tôi cho rằng nó xảy ra trong bối cảnh
trước hết là từ ý kiến cho là Việt Nam nên đổi tên nước, lấy lại tên cũ
ban đầu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa riêng điều đó có thể bật lên trong
đầu người ta cho rằng phải đổi rất nhiều thứ kèm theo trong đó có đồng
tiền. Thứ hai nữa quan trọng hơn là về kinh tế, người ta cảm nhận được
khó khăn của kinh tế hiện nay đặc biệt các vấn đề của hệ thống ngân hàng
đang còn có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng cộng với ý kiến đổi tên nước
khiến người ta suy nghĩ đến tin đồn có thể có cơ sở.
Đổi tiền hay không thì chỉ có dân là thiệt
Ngân hàng Nhà nước đã vội vã lên tiếng. Ông Nguyễn Chí Thành –
Cục trưởng Cục Phát hành và Kho quỹ Ngân hàng Nhà nước xác định với báo
chí rằng sẽ không có việc đổi tiền vì nhiều nguyên do, trong đó theo ông
Thành cho biết Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ tiền mặt trong lưu thông
rất cao, để in được lượng tiền mặt như thế thì phải mất vài năm. Chi phí
cho thực hiện kế hoạch đổi tiền như thế là vô cùng lớn. Do đó không
thực hiện dễ như nhiều người suy diễn.
Câu trả lời này khiến cho người dân thêm nghi ngờ. Đồng tiền Việt Nam
đang lưu hành dù có nhiều bao nhiêu đi nữa nhưng nếu nhà nước lại hạn
mức như những lần đổi tiền trước thì số tiền đổi cho dân chúng sẽ không
phải là vấn đề quá lớn như ông Thành đưa ra. Nếu 1 đồng ăn 1.000 thậm
chí 10.000 như thời gian đổi tiền năm 1959 thì NHNN sẽ dư sức có tiền
mới để chuyển đổi.
Chính sách bán vàng đồng loạt hiện nay nhằm bình ổn thị trường vàng như
NHNN trấn an dư luận thật ra đang gặp nhiều ý kiến chống đối của các
chuyên gia kinh tế cũng góp phần vào sự nghi ngờ của người dân. Thị
trường bất động sản đóng băng, nợ xấu tràn ngập các ngân hàng là những
tiền đề khác làm người dân bất an, và tâm lý bất an này dẫn đến tin đồn
tràn ngập việc đổi tiền là điều dễ hiểu.
TS Nguyễn Minh Phong trưởng phòng Nghiên Cứu viện Nghiên cứu khoa học xã hội Hà Nội cho biết nhận xét của ông:
Không phải vấn đề vàng mà phải đổi tiền và cũng không bao giờ có
chuyện đổi tiền cả. Đó chỉ là tin đồn mang tính chất thất thiệt, một cái
hàm ý nào đó nó không có thiện chí. Về mặt kinh tế cũng như về mặt các
nguyên nhân khác thì không có cơ sở nào cho vấn đề đó cả. Ở Việt Nam
thỉnh thoảng có những tin đồn thì cũng bình thường thôi nhưng không có
sự liên hệ giữa hai việc quản lý vàng và tin đồn đổi tiền.
Dưới mắt các nhà kinh tế, nhìn các nguyên tắc điều hành kinh tế vĩ mô hiện nay thì việc đổi tiền là hoàn toàn không thể. Bà Phạm Chi Lan nhận xét:
Tôi không tin là nhà nước Việt Nam sẽ tiến hành đổi tiền bởi vì lần
đổi tiền cuối cùng ở Việt Nam xảy ra trong cơ chế cũ kinh tế tập trung
vào giữa thập kỷ 80 trong bối cảnh kinh tế hết sức khó khan, theo cách
điều hành cũ dẫn tới điều hành giá lương tiền nó làm cho kinh tế thực sự
rơi vào khủng hoảng.
Bài học đổi tiền lúc đó gây ra họa lớn cho kinh tế như thế nào đến
bây giờ vẫn còn nhiều người chưa quên và đối với những người lãnh đạo
hiện nay thì tôi tin là họ cũng hiểu những bài học cũ vẫn còn đó và đặc
biệt là trong cơ chế kinh tế thị trường đã hình thành ở Việt Nam không
thể thay đổi được thì không thể dùng biện pháp đổi tiền.
Trong khi NHNN tiếp tục tiến hành đấu giá vàng cho các ngân hàng thương
mại thì nhiều người nhận xét rằng, một lượng lớn vàng đang còn nằm kín
đáo trong tư gia của các nhân vật cộm cán nhà nước. Vàng tỏ ra an toàn
để cất vì không ai dại dột cất tài sản hối lộ do tham nhũng bằng tiền
đồng VN. Nếu tiền được đổi một lần nữa thì vẫn không chạm được tới gia
sản khổng lồ của họ khi đã chuyển thành vàng khối.
Kinh tế Việt Nam đang trượt dài trong nhiều quý và điều này dù muốn hay
không cũng tấn công lòng tin của người có tiền. Những đồng tiền lương
thiện sẽ được đem ra mua vàng là điều hiển nhiên trong lúc này. Người
dân cho rằng nhà nước có nói gì thì cũng không cản được sự mất tin tưởng
của họ vì họ nhớ rất rõ, những lần đổi tiền sau năm 1975 không lần nào
mà nhà nước không tuyên bố đó là tin đồn thất thiệt nhằm gây hoang mang
trong dân chúng.
Những lời trấn an đè bẹp sự thật ấy đã làm mất niềm tin của dân chúng vì
vậy không thể nói tại sao họ không tin lần này sẽ không có đổi tiền.
Wednesday, May 1, 2013
Huy Đức Bên thắng cuộc Phần I: Miền Nam Chương 1 Ba Mươi Tháng Tư
a mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày
chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.
Đi từ bưng biền
Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám
lá tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê
Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư
lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn
Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử
ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông
Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân
chủ lực.
Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận
phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía
Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông
Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà
Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp
điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên
đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến
rồi”.
Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy
lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua
sông Vàm Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí
Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu
uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối
hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi
những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang
xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo Sài Gòn –
Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua
phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu
có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra:
“Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư
ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh.
Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh,
được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô
Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt
trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp.
Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt),
rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới
biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày
29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng
đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.
Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ
trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài
băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính
trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba
Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta
pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không làm sao ngủ
được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí
Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh
em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.
Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng
phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người
xúm lại quanh chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn
Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân
tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa
người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi
yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ
súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở
đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau
thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô
ích của đồng bào”.
Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”.
Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra
lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài
Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em
bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có
nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải
thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài Gòn diễn
ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh,
hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm
cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.
Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe
máy từ phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy
anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy
anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì
thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường.
Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín
Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài
xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ”
vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái
chiếc xe quay lại.
“Đại quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng
leo lên. Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế
bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh
niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy
theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi
giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một
trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài Gòn.
Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm
đó, có người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy
vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ,
sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc
đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui
trong cái ngày 30-4 đó.
Xuân Lộc
Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội
thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt
những dòng cuối cùng của một trang sử.
Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo
Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh
cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4,
Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh.
Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh
chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh
tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn
dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa tới thị xã để chi viện
gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.
Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực
lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục
chiến của Sài Gòn đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc
liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai
loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất
Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu sử dụng.
Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí
nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp
khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả
năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ
mạnh để giữ vững chế độ.
Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm
Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết:
“Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong
thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra
khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể
tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ý”8. Chiều
11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La
Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết
luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng
ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng
chúng đã chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất
ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba
Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị
đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất
cả nhất trí với phương án tác chiến này.
Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I
được điều từ miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến
dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược
chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một
hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy
chiến dịch duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông
Lê Duẩn viết: “Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần
chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III
và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu
cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng ngày 21-4, các
tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ.
Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng hòa với
Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng
máy bay lên thẳng.
Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng
viên đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có
thể nóichuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói:
“Tôi không tinlà tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được
dân bầu rời nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày
20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều
đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin nói bóng gió với ông
Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp
nói với miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt
Nam có liên hệ với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời
rằng ông sẽ làm tất cả những gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy
nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4- 1975, khi không còn Xuân Lộc,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng
thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông từ chức. Chiều tối
hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai quyết
định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên
Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ
thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công
quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như
giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động. Nắm
vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giànhtoàn thắng”14.
Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần
Văn Trà di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ
và Phạm Hùng tới. Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn
toàn bị vây hãm. Phía Tây,Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư
đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình
Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa
hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy.
Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn
từ ngã ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống
chế được đoạn Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt
đồng bằng Cửu Long bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng
nổ súng tấn công căn cứhuấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu
Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn
toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng
Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh,
khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày
23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòalãnh sự Mỹ ở thị xã
Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần
Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.
Tướng Big Minh
Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới
“phương án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA
tại Sài Gòn Thomas Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật
Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính
phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16.
Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà
Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại thì Bắc Việt sẵn
sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của Đức Từ
Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình
Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả
năng chấp chính.
Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ
sứ Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt,
“tập kết” ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội
Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960,
Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã
yêu cầu Cục trưởng CụcĐịch vận Võ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh
Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh
Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962
thì móc nối được với cậu ruột và vợ làSử Thị Hương.
Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân
danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng
thống.
Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty
qua Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn
Minh, nhưng cả hai lần đều không gặp18.
Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm
trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương
VănMinh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên
bố “sẵn sàng thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình
huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4,
Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc
kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí Sài Gòn bình luận là cố
tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập trường của Pháp
đối với tình hình chính trị miền Nam.
Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia
đình vẫn sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài
Gòn là “Chính phủThiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần
Văn Hương và Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa
ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và
Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.
Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng
của một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu
dinh”, nơi ởcủa gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân
để đưa về tư gia. Sau đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên
của ông Hương nói “Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan
một phong thư, dặn khi nào Tổng thống họp xong thì trình.
Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức
thư viết: “Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện
Khiêm đi giải độc tại các quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại
tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn
Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây,
một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá
Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng. Khi họ quay lại thì
bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục cho chuyến bay.
Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi
trường bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ
Tổng Tham mưu, thay vì rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra
Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi
Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường ngược chiều chạy vào sân bay.
Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam
nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận
tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tớicầu thang một chiếc
máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn. Đêm ấy,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.
Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát
cánh với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những
ngày dài như vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước
đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử
thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc
Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài
thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng
Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân biểu đối
lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói “moa
không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới
giờ đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ:
“Ông Tướng đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống
chén đắng cho tới cặn sao”20.
Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận
khuyên Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà
toa còn nói đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng.
Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc
Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có
đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp
tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn đứng trong hàng ngũ
những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông Nhuận không
tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều người
muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một dân
biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô
trưởng”.
Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên
tổng số 219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra
nước ngoài. Bộtrưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao
Văn Viên đã đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54
phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu
cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu
hòa bình cho dân tộc”.
Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính
phủ: Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó
tổng thống; luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm
một thành viên chính thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.
Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số
33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
Kính gửi ông Đại sứHoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng
yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy
viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ
kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết.
Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại
tướng Dương Văn Minh”.
Trại Davis
Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng
thống Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp
ông Huyền hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để
hòa giải dân tộc, vậy các anh đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”.
Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu
vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có mặt ở đó với tư cách là thành
viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định Paris.
Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao
Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp
ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân
Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ
trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu
làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.
Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông
Nguyễn Đình Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi
họ gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán
bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có
nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này
gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.
Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Huyền. Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp
và ông Nguyễn Đình Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố
“Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống
đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên Tổng thống. Tướng Dương
Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố bản này trên Đài
Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong ngày 29-4,
sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực
lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông
Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn
pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận
không chống cự thì tôi lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không
pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn
không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”.
Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục
Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính
phủ Cách mạng Võ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không
chống cự” từ ôngLiễng. Do tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ
“sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi quân Giải phóng vào đến Sài
Gòn.Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được
tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh
sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định, một “đảng
viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi
hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
Nguyễn Hữu Hạnh
Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ
theo dõi tình hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm
thầm với Cách mạng gần chục năm qua mang về kết quả.Ông Hạnh với ông
Minh đã có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng
lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi ông
Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự
dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong
chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh
bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.
Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành
– thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam,
trong khi
con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông
Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo
sử dụng quyền lực
và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông
Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của
quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”,
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận
ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do
ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối
lời đề nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải
phóng”, từ chối tham gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh
em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt,
tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu được”. Giữa năm 1974, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh
vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách mạng”. Tuy nhiên,
khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy Dương Văn
Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm lấy
cơ hội cuối cùng.
Ông kể: “Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng
khi ấy vẫn còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân,
phụ trách sự vụ nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một
chút. Ông Dương Văn Minh là một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc
này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy
viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng bên để ông Minh và ông
Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ Mérillon thông
báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn đề
thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.
Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon
ra về. Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương
Văn Minh: ‘Thưa Đại tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh
nói: ‘Toa là quân nhân không đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân
đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không nắm nổi tình hình mà còn phó
thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách mọi việc ở Bộ Tổng tham
mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân đội và tôi đoán
thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồiđi
coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông
Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng
Cao Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra
nước ngoài. Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng,
Thiếu tướng Lâm Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh
Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho
ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu
thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ
chúng nó chạy như chuột”.
Tình hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
khi ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu
trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng
đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng
Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy
tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý.
Nhân khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục
Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho
gia đình chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua
nhiều kẻ đã phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận
nữa”.
Sài Gòn trong vòng vây
Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần
lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy
hiểm do đã cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã
“chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều
kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông
dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ
hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu,
năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).
Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm,
liên tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi.
Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng
các phương tiện khác”.
Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng
tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ
vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm
ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến
những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ
trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới đất bắn lên, tức giận.
Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng
tham mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa,
Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút,
Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất
tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.
Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh
ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo
ông Hạnh thì giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần,
Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút
chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm
đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm
29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.
Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp
lập tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn
xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt
khu Thủ đô chobiết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân
lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ
thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông
thương thuyết”.
Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình
quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân
Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể
họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy
nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các
đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5
thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một
đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt trận phía này
chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e
trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn
Hữu
Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện
thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là
cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi
hoàng tộc này đã cùng gia đình “di tản” bằng đường thủy.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm
xe, tàixế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe
riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông
Minh, Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói.
Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm:‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng
quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi:‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói:
‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại
tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta
chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi
đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị
được đi theo, ông Minh đồng ý”.
Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là
đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng,
tại tòa đại sứ Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi
Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực
thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là
vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ
cuộc di tản ở tòa Đại sứ.
Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng
của tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn
Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông
Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se
rendre”(phải đầu hàng).
Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông
Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào
hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố
mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9
giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như
ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát
trên đài Sài Gòn.
Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy
ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng
gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang
ngồi trong phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu.
Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu
chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả
đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít
nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ
Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp
lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi
Vannuxem về
rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.
Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào
lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và
mới đến số 7
Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người
trong số họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để
chờ đợi.
Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính
quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá
Tổng
Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn.
Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng.
Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được
biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc
Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng
chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ
trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông
Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham
mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của
Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ
trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu.
Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao?
Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ
25”. Viên thiếu tá yêu cầunói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông
Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông
Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.
Xe tăng 390
Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu
đoàn trưởng Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực
lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc
Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi
tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843
đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng
phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính
Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.
Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn
Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng,
chính ủy Lữ đoàn
tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc
radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II,
Tướng Nguyễn Hữu
An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm
được chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước
mục tiêu cuối cùng.
Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được
Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh
Tài và Tùng. Bảy
chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận
đặc công của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do
đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố
gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4
giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và
Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9
tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ
liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng thống –
Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung
ương tình báo./An”.
Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương
Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện:
“Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân
uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị
và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục
tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh
nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ
quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để
mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới
quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có
điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.
Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203
chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn
Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào
lịch sử. Sống chết vẫn còn gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm
bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị
một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu
úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán
thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi
bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc
tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.
Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng
Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng
nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II
vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê
Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành,
Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá
Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp
Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết thúc
Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối
cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay
sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng
Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy
thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843,
nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của
trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi
Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên.
Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho
xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh
xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở
nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên
“Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy
chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại
người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh không có thời gian để tìm xem
chị ở đâu.
Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy
Bùi Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá
cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được
mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm
cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi,
hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm
trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một phát đạn nào.
Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK
nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai
chạy lên thềm
Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ
lại là anh đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể
vì quá căng thẳng và có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng
trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến
nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong
Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào.
Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém.
Không biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại
“canh chừng”, chờ cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch
sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng
thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên
nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ
tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng [27].
Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi
công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài
Gòn, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy,
loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ
rộng rất nhiều. BùiQuang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại:
“Lúc đó tôi thấy thang máy giống như… cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình
luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích,
Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.
Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba
sọc vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang
Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao
vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”
[28].
Đầu hàng
Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng
Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: “Tôi dồn toàn bộ nội các Dương
Văn Minh vào một chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương
Văn Minh ra chào. Khi ông Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ
lý đến. Anh Thệ nói: ‘Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung
đoàn 66′”.
Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang
Đức, người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó,
tường thuật: “Tay Thệ cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga,
Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng
tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được
thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng
nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu nhưng
không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả. Sự
hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi
Văn Tùng, xuất hiện”29.
Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe
báo cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng
thống cơ à!”. Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao
lớn, bước vào, thì lịch sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã
lâu rồi để bàn giao chính quyền”.
Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì
để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu
Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư
hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài
phát thanh.
Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập,
lái xe 390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm
ngoảnh lại thấy vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình
thì sao?”, bèn quay lại nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một
lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng
đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của
mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên hệ đến bức ảnh
của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏdương cao
súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi,
thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói:
“Việc ấy là của tớ”.
Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến
trường Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng
để chở Tổng thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc
Vận30 kể: “Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn
ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một
người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy
Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và
Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi mới biết người
to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh mình là Tổng
thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi trắng ngồi
phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.
Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi
chạy giữa thành phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ
hãi bỗng nhiên được làm dịu đi – qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài
Phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu
nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên
tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát.
Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và
Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa
họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh
giấy màu xanh”31.
Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: “Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng
một băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã
người. Nhưng một ý nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì
chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông
phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng thống Dương Văn Minh nói:
“Ông muốn gì hãy ghi ra”.
Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống
chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu
hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố
Chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn
toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Miền Nam Việt Nam”.
Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy
ghi âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam
long trọng
tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự
đầu hàng không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính
quyền Sài Gòn”32. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để
phát biểu và đây, có lẽ,mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh
thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi – giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng –
kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của
dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan
hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách
mạng”33.
Ông Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực
lượng của Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt
Nam đầu tiên đến Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và
nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm đóng đối xử tốt với những người trong
chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh.
Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự
“đứng đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất
hiện trong vai trò đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày
1-5-1975, khi đang ở Sở chỉhuy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà
được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói
Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia
Định. Đi ngay cho kịp”.
Ông Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp
quản cần một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ
với dân chúng.
Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi
Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và
đã từng được báo chí Sài Gòn nhắc đến.
Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể34: “Theo
chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu
của ngụy quyền mà
từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở
đây. Tôi chỉ gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống,
Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền,
giải thích cho họ chính sách của cách mạng là quang minh, chính đại, độ
lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất cả những việc làm đã qua chúng
tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái độ và hành động từ
ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ đại của dân
tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏra
xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của
một nước Việt Nam độc lập”35.
Tuẫn tiết
Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai
có thể đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên,
‘Việt cộng” chỉ thực sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.
Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc
vào Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy
ngày trước, các sư đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di
chuyển xuống Trà Nóc và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng
bay xuống, nhóm họp với các tướng lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với
sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm
tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở
hướng Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa
Nam từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm
29-4-1975, gần như tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.
Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân:
“Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em
không quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay
bắt đầu trúthết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy
Dũng: “Tụi tao được lệnh di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì
lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh.
Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó làA37 rồi C123. Trực thăng
túa lên trời như châu chấu.
Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân
đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công
mạnh ở ba nơi: Vĩnh Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba
cây số. Nhưng tôi đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ
giữ các vị trí còn lại. Các lực lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu
có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn nguyên vẹn”36. Phó tướng của
Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê VănHưng, người mà năm 1972 đã
từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh
nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống”.
Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân
đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh
Quânđoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và
Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua
khỏi cầu CáiRăng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra
lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm
lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị
đóng xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều,
khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân
sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt
Cộng pháo kích vào thị xã”.
Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo
ông Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ
thuật của Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch,
anh Ba Trung đã sử dụngđiện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long
rằng tính mạng của y đã nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng,
cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản
của bản thân và gia đình, vợ con được bảo toàn; bằng không, y sẽ phải
đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo toàn tính mạng, mặc dù Cách
mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày 30-4,
tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời
hứa bảo toàn tính mạng”38.
Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.
Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam
Cộng hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến
lúc ấy vẫnđịnh phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều
biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày
càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ
huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà.
Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20
giờ cùng ngày”40.
Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ
biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà
Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy
cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào
đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho
bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư
lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng
Nguyễn Khoa Nam tự sát.
Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày
29-4-1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm
trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng
một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa
30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.
Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày
30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã
tự tử bằng súng lục.
Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến
tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau
đó.
Chú thích chương I
1Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
2 Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
3 Đạo diễn điện ảnh.
4 Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
5 Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
6 Ngày 14-4-1975.
7 Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực thăng.
8 Trần Văn Trà, 1982, trang 254.
9 Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
10Sđd, trang 258.
11Sđd. Trang 261.
12Kissinger, 2003, trang 536.
13Kissinger, 2003, trang 543.
14Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
15Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
16Larry Berman, 2001.
17Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi Tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng"
Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người
của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có
người vẫn gọi ông là trung tướng.
18Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo
với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển
rất nhiều bởi “binh vận”.
19Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt
phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
20Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn Trà đánh giá:
“Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật thà, tin vào phù phép của tả
phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến
giờ chót còn cố vươn vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang
283).
21Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo cứu hết sức
giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời vẫn giữ được tờ Sự Vụ
lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về
sau, ông theo những người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và
nhận lãnh vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm
thời cuộc hơn là được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là
tình báo viên của miền Bắc, ông Nguyễn Đình Đầu nói ông cảm thấy như là
bị xúc phạm.
22Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực hiện nghiêm
chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng quyền dân tộc căn bản và
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài
Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến
tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
23Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
24Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh.
25Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
26Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384.
27Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà báo Cung Văn
đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn
trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động
trong các phong trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
28Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của mình không nói
rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp giữa Bùi Quang Thận và
đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc
này đã trở thành Phó Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá
cờ Ba que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả
hai cùng rách diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc
Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ cất đi. Ông Tài cho
trải cả hai lá cờ ra, ráp diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ
là lá cờ cuối cùng được Chính quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
29Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264 tháng 7-2006
30Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã Thanh Hóa.
31Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
32Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân hàm thiếu tướng
lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận rằng chính ông là người bắt
sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho
Dương Văn Minh đọc.
Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Quân sự đã tổ
chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc lập ngày
30-4-1975" nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát
thanh tại thời điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của
Lữ 203 và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện Lịch sử Quân
sự đã ra kết luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ
cùng các cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố
đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá
Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán
bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bùi Văn Tùng
tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng”. Ngay sau khi
công bố, Kết luận của Viện Lịch sử Quân sử đã bị ông Bùi Văn Tùng, các
các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái,
người có mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối (nhiều ý kiến
đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264 tháng
7-2006).
33Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn Nhã. Lúc bấy
bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ
Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử
Địa, Đại học Sư phạm.
34Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần Văn Trà.
35Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975.
36Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
37Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ, Vĩnh Long trong ngày 30-4-1975.
38Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
39Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát vào
lúc 3 giờ sáng ngày 1-5-1975”, tuy nhiên những người thân cận Tướng Trần
Văn Hai nói ông tự sát vào chiều 30-4.
40Văn Tiến Dũng, 1976, 305.
Huy Đức Bên thắng cuộc Lời cám ơn
Trong quá trình thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, tác giả đã nhận
được sự giúp đỡ chí tình của nhiều nhân vật lịch sử, sự hợp tác của các
nhân chứng, sự đóng góp của các đồng nghiệp, và sự ủng hộ của rất nhiều
bè bạn.
Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp
cho cuốn sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng
Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị
Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan,
Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung
ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình
Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan,
Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc
Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…
Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả
với tư cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn
sách này: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh
Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng
Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ
Chính trị Phan Diễn…
Cuốn sách không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác và tư
vấn của những người giúp việc, những người có nhiều năm gần gũi với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng như ông Trần Việt Phương, ông
Vũ Kỳ…; của nhóm giúp việc Tổng Bí thư Lê Duẩn: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Trần Phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, thư ký
tổng bí thư, ông Đống Ngạc; của nhóm giúp việc và chuyên gia tư vấn của
Tổng Bí thư Trường Chinh: Tiến sỹ Hà Nghiệp, Giáo sư Trần Nhâm, Giáo sư
Đặng Xuân Kỳ, Giáo sư Dương Phú Hiệp, Giáo sư Đào Xuân Sâm, ông Trần Đức
Nguyên…; của những người giúp việc Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: ông
Trần Văn Giao, ông Hồng Đăng, ông Dương Đình Thảo, Tiến sỹ Lê Đăng
Doanh; của những người giúp việc Tổng Bí thư Đỗ Mười: Thống đốc Lê Đức
Thúy, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam; của những người giúp việc Thủ tướng Võ Văn
Kiệt: Trợ lý Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý Nguyễn Trung, Trợ lý Vũ Đức Đam, ông
Phạm Văn Hùng, ông Nguyễn Văn Huấn, Bác sỹ Đinh Trần Nhưng, Thư ký
Nguyễn Văn Trịnh…; của những người giúp việc Thủ tướng Phan Văn Khải:
Trợ lý Nguyễn Thái Nguyên, Trợ lý Nguyễn Đức Hòa, Thư ký Nguyễn Văn
Kích; của người viết tự truyện cho Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tá Khuất
Biên Hòa.
Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thụy Nga, phu nhân Tổng Bí thư Lê Duẩn,
bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Phan Lương
Cầm, phu nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trả lời phỏng vấn và cung cấp
thông tin, tư liệu. Xin cám ơn sự giúp đỡ của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con
rể, và Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn; bà Võ Hiếu
Dân, con gái, và ông Phan Thanh Nam, con trai Thủ tướng Võ Văn Kiệt;
Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, con trai Tổng Bí thư Trường Chinh.
Cuốn sách cũng nhận được sự cộng tác rất tận tình của các vị từng đóng
vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành chính sách ở các giai
đoạn khác nhau của Việt Nam như Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe
(1946-1960), Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc (1992-2002), Bộ trưởng Kế
hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá, Tổng Cục trưởng Địa Chính Tôn Gia Huyên,
các đời chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Đoàn Trọng Truyến, Lê Xuân Trinh,
Lại Văn Cử, Đoàn Mạnh Giao, Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, Bộ trưởng
Thương mại Trương Đình Tuyển, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão,
Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng Văn
hóa Trung ương Hữu Thọ…
Đặc biệt cám ơn các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng đóng vai
trò quan trọng trong chiến tranh như Cục trưởng Tác chiến, Trung tướng
Lê Hữu Đức, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Lê Phi Long, Cục phó Tác chiến
Thiếu tướng Phan Hàm, những người trong gia đình Đại tướng Lê Trọng
Tấn, Cục trưởng Tình báo Quân đội Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng
Quân ủy Trung ương Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh Văn phòng Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, Đại tá Nguyễn Văn Huyên…
Xin chân thành cám ơn các nhà cách mạng lão thành đã cung cấp cho tác
giả hơn năm mươi cuốn hồi ký, phần lớn chưa từng xuất bản. Có những cuốn
có giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng, như các tập hồi ký của Bí thư
Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, một người từng gần gũi với Tổng Bí thư
Trường Chinh, từng chỉ huy mạng lưới tình báo miền Bắc ở miền Nam và
từng là trưởng Ban Bảo vệ Trung ương Đảng. Có những cuốn rất thẳng thắn
của Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV Nguyễn Thành Thơ, người từng chỉ đạo
kinh tế mới và hợp tác hóa ở miền Nam. Có những cuốn tiết lộ xung đột
đảng phái thời kỳ ngay sau 1945 của Đại tá Công an Trần Tấn Nghĩa, người
nhận lệnh trực tiếp ám sát và bắt giữ các thành viên đảng phái không
cộng sản trong các năm 1945, 1946. Có những cuốn nói về thời kỳ “giúp
bạn” Campuchia của Đại sứ Ngô Điền, Đại sứ Trần Huy Chương. Cũng có
những cuốn rất thú vị, giúp tiếp cận với những góc độ khác của các nhà
lãnh đạo tối cao như tự truyện của bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh, hồi ký của bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của
Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Tác giả xin chân thành cám ơn các sỹ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa:
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy
trận hải chiến Hoàng Sa tháng 1-1974; cám ơn Phó Thủ tướng Việt Nam
Cộng hòa Nguyễn Văn Hảo, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dân biểu Ngô Công Đức;
cám ơn nhà văn Phan Nhật Nam, các nhà thơ Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, nhà
văn Uyên Thao; cám ơn Giáo sư Lê Xuân Khoa, bà Khúc Minh Thơ, những
người đã giúp tác giả hiểu thêm về những nỗ lực của cộng đồng để giúp
những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ.
Tác giả cũng chân thành cám ơn Giáo sư Thomas Bass (Đại học
Albany-SUNY), người đã thu xếp cuộc phỏng vấn cựu ngoại trưởng Henry
Kissinger tại Boston vào tháng 2-2006; chân thành cám ơn các nhà báo
Nguyễn Thị Ngọc Hải, Yên Ba, Nguyễn Khoa Diệu An, Trần Chí Hùng, Nguyễn
Giang, Đinh Quang Anh Thái, Nguyễn Khanh, Lê Thiệp, nhà phê bình Phạm
Xuân Nguyên, nhà ngoại giao Đinh Hoàng Thắng, nhà nghiên cứu Lưu Thu
Hương, Tiến sỹ Trần Tố Loan đã giúp tác giả tiếp cận với nhiều nhân vật
và nhiều tài liệu lịch sử quan trọng. Tác giả cũng xin chân thành cám ơn
hàng trăm chính khách, sỹ quan, nhà tư sản, nhà báo, thường dân, các
thuyền nhân và nạn nhân của những biến động sau năm 1975, những người đã
giúp tác giả có được những câu chuyện sinh động. Những trích dẫn không
có chú thích trong cuốn sách này được lấy từ những cuộc trò chuyện do
tác giả thực hiện trực tiếp với các nhân chứng.
Xin cảm ơn nhà thơ Bùi Khương Hà, người đã đọc những chương đầu tiên
trong bản thảo đầu tiên và có những ý kiến xác đáng giúp tác giả điều
chỉnh nội dung và cấu trúc cuốn sách.
Tác giả cũng xin chân thành cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học
Dương Trung Quốc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, Giáo sư Trần Hữu Dũng (Đại học
Wright, Ohio), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason,
Virginia), nhà sử học Sophie Quinn Judge (Đại học Temple), Giáo sư Shawn
McHale (Đại học George Washington), Giáo sư Hồ Huệ Tâm (Đại học
Harvard), Giáo sư Peter Zinoman (Đại học UC Berkeley), Giáo sư Ngô Thanh
Nhàn (Đại học New York) đã đọc và tận tình góp ý để tác giả hoàn chỉnh
bản thảo cuốn sách này.
Cuốn sách cũng không thể hoàn thành nếu không có nhóm giúp việc gồm một
số trí thức trẻ, một số sinh viên mà trong lần xuất bản này tác giả
chưa thể nêu tên họ. Trong quá trình thực hiện cuốn sách tác giả đã luôn
nhận được sự động viên, giúp đỡ của những người bạn như Nguyễn Thanh
Toại, Đặng Cao Thắng, Lê Hải, Đỗ Trung Quân, Hà Tân Cương, Nguyễn Quang
Lập, Đặng Tâm Chánh, Bùi Nguyên Cẩm Ly, Trần Minh Khôi, Võ Văn Điểm,
Huỳnh Kim Phụng, Đào Ngọc Lâm, Bùi Đức Thịnh, Nguyễn Văn Diễn, B.V.D,
N.T.H, Nguyễn Đức Quang, Trần Ngọc Phong, Mai Kỳ, Xuân Bình, Nguyễn Hải
Phong, Lê Thị Hoàng Anh, Phùng Văn Vinh, Trần Minh Triết …
Tác giả hy vọng tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành để hoàn chỉnh cuốn sách này trong những lần xuất bản tới.
Subscribe to:
Posts (Atom)
Bao năm được đảng giáo dục, đẻ ra cả một đội quân chuyên nghề hát mướn cho đảng (cái này chỉ duy nhất dưới “chế độ đỉnh cao” có dân chủ gấp vạn lần “tư bản giãy chết” mới có chuyện đảng lấy tiền dân đi thuê người khen đảng), cả một bộ máy tuyên truyền đồ sộ chỉ phục vụ duy nhất cho việc tô hồng chế độ,công an thì quản lý đến từng tổ dân, bộ máy kìm kẹp dân hiện nay đang nhanh chóng phình ra đông hơn bất kỳ thời nào…. Vậy mà chưa bao giờ dân lại dễ nghe “thế lực thù địch” nhiều đến vậy?….
Sẽ còn rất nhiều câu hỏi khác được đặt ra và đều chỉ đến vấn đề chính là Pháp luật (nhất là chính sách đất đai) và những kẻ có chức, có quyền thực thi chính sách mới là nguyên nhân chính chiếm tới 99% dẫn đến hiện tượng Dân Oan nhiều như hiện nay. Pháp luật về Đất đai và kẻ thi hành mới sinh ra Dân Oan, để xảy ra bất công trong xã hội như hiện nay. Dân thật là tưởng bở “sở hữu toàn dân” là có mình?
Để giải quyết vấn đề này lại đụng đến một vấn nạn xã hội khác còn tồi tệ hơn rất nhiều, đó là “lợi ích nhóm” mà nhiều người gần đây mới dám công khai chỉ ra, mặc dù nó tồn tại đã lâu. Đụng đến “lợi ích nhóm” thì cỡ” ba đầu sáu tay” chỉ là hạt bụi, cỡ đảng trưởng cũng có thể rớt chức ngay tức thì.
Để giải quyết vấn nạn “Lợi ích nhóm” có thể nói thẳng không một cá nhân nào giải quyết được kể cả Mr.Tổng bí nếu không có sự tiếp sức từ Dân Oan, sự đồng thuận của cả xã hội Mà để có sức mạnh tổng hợp đó lại cần có nhà nước, người dân, công khai minh bạch, những điều này lại là một sự cấm kỵ trong một xã hội độc tài đảng trị
Cuối cùng thì cái “thế lực thù địch” vô hình luôn được đảng và quan chức đem ra làm cái cớ để đàn áp dân, để cưỡng bức mọi bất công trong xã hội hiện nay. Tóm lại đảng cũng đứng về “lợi ích nhóm” để chống lại dân trong cuộc chiến với bất công của xã hội…vậy xin đổi thành Đất Nước Oan…Nghiệt