Wednesday, October 23, 2013

Sự Thật Về Võ Nguyên Giáp (bài 2): CS Trung Quốc Và CS Việt Nam

CS Trung Quốc Và CS Việt Nam – Chiến Dịch Điện Biên Phủ 13/3-7/5/1954 – Đoàn CốVấn TQ và Võ Nguyên Giáp

Mao Trạch Đông dặn dò Đoàn Cố Vấn TQ (HCM bắt người Việt gọi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại Trung Quốc”): “Việt Nam đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải tỏa khỏi mối đe doạ của bọn xâm lược thực dân Pháp…”.
Mao chú ý theo dõi toàn bộ chiến trường Bắc – Trung – Nam Việt Nam, cả Lào và Campuchia. Mao cũng chú ý theo dõi động thái của quân Pháp và Hoa Kỳ trong việcđặt chân vào Đông Dương. Mao muốn mở đường cho QT tiến về phương Nam. Chiến lược là giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào, sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ,phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Từng bước làm cho mình lớn mạnh, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện để cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp.

Mao bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định cử La Quý Ba (???, Luo Guibo, 1908-1995) đi làm Thủ Trưởng Đoàn Cố Vấn TQ, Tổng Cố Vấn Trung Ương đảng CSVN và CT HCM từ tháng 1/1950 đến tháng 8/1954, sau làmĐại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của TQ tại Hà Nội vào tháng 9/1954…

http://www.truyen-thong.org/so32/18.pdf
Đảng CSTQ đã cử đoàn cố vấn (trong thời gian 2/1950-3/1956) qua làm việc trong các chiến dịch (trận đánh lớn), như vai trò của Tướng TQ Trần Canh (??, Chen Geng, 1903-1961, hình trên) trong Chiến Dịch Biên Giới 1950 tại Đông Khê, Thất Khê (Ttước đó, theo yêu cầu của HCM và với sự đồng ý của Mao, CSVN đã đưa qua vùng núi Vân Sơn thuộc tỉnh Vân Nam 2 Đại Đoàn cho TQ trang bị và huấn luyện đểchuyển từ thế thủ sang thế công.); Trần Canh và Vi Quốc Thanh (???, Wei Guoqing, 1913-1989, nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công An, Trưởng Đoàn Cố Vấn Quân Sự cùng đoàn 281 người qua ngày 12/8/1950, hình dưới) trong Chiến Dịch Việt Bắc và cả Chiến Dịch Cao Bằng; Vi Quốc Thanh trong Chiến Dịch Đông Bắc, Chiến Dịch Thượng Lào và nhất là Chiến Dịch Điện Biên Phủ (13/3-7/5/1954).

TQ đã viện trợ cho CSVN rất dồi dào, gồm khoảng 150.000 khẩu súng, hơn 3.000 khẩu pháo, đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, đồ dùng hàng ngày như bát ăn cơm tráng men, khăn bông v.v…(Trích bài viết của Trương Quảng Hoa, một “cố vấn vĩ đại”của Hồ Chí Minh). Giờ chót có cả pháo hỏa tiễn 16 nòng. Giúp thành lập, huấn luyện và trang bị 6 Sư Đoàn, các binh chủng như công binh, pháo dã chiến, cao xạ…(có tin là trị giá viện trợ CSTQ cho CSVN khoảng 35 triệu dô-la Mỹ) nên đảng CSVN đã có ưu thế để chiến thắng trên các mặt trận chống Pháp.
Có lúc CSVN đã kêu gọi TQ gửi quân qua cứu giúp.

- Ngày 11/7/1952, HCM và Bộ Chính Trị CSVN đã yêu cầu TQ gửi quân từ Vân Nam sang VN để điều phối chiến dịch Tây Bắc của Việt Minh do chính Tướng TQ La Quý Ba phác họa và Quân Ủy Trung Ương TQ chấp thuận.

- Ngày 22/7/1952, Quân Ủy Trung Ương TQ trả lời: TQ giữ nguyên tắc không gửi quân sang VN, nhưng họ có thể điều động một vài đơn vị dọc biên giới để thể hiện sự ủng hộ…
- Ngày 13/8/1953, CSVN lại gửi điện cho TQ yêu cầu trợ giúp trong việc “xem xét tình hình và tìm hướng đi cho nỗ lực chiến tranh tương lai.”.

- Ngày 27 và 29/8/1953, Bắc Kinh gửi 2 bức điện cho La Quý Ba nhấn mạnh VN cần giữ nguyên kế hoạch ban đầu, tức là tập trung vào Tây Bắc và Lào. Bức điện ngày 29/8/1953 viết: “Bằng cách tiêu diệt kẻ thù ở khu vực Lai Châu, giải phóng khu miền Bắc và Trung Lào, rồi mở rộng chiến trường sang miền Nam Lào và Campuchiađể đe dọa Sài Gòn…”.

Theo tài liệu của CIA qua bài viết của Bob Seals, từ năm 1952, đã có khoảng 15.000 quân TQ tại VN, theo Hoàng Văn Hoang trong “Giọt Nước Trong Biển Cả” tổng cộng khoảng 20.000 người.
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3ntn3n3n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1

Cuộc bao vây đánh Điện Biên Phủ là kéo dài 8 tuần, TQ cung cấp 8.286 tấn vật tư, bao gồm 4.620 tấn xăng dầu, 1.360 tấn đạn dược, 46 tấn vũ khí và 1.700 tấn gạo từ các kho chứa cách xa gần 1.000 km. Cố vấn TQ tham gia ở tất cả các cấp độtrong trận chiến, bao gồm đào hầm hố có mái che trong tất cả các vị trí pháo binh VN quan trọng, là kinh nghiệm họ đã học khi chiến đấu trên các ngọn đồi ởTriều Tiên. Với những sự giúp đỡ to lớn ấy, CSVN đã dần dần chuyển từ thế thủsang thế công và thắng Pháp.

Phòng thủ của Pháp ở Điện Biên Phủ.

Hoa Kỳ, Anh Quốc và các quốc gia Đồng Minh giúp cuộc kháng chiến “Nước Pháp TựDo” và chính phủ lưu vong của Tướng Charles de Gaulle (1890-1970), thực hiện cuộcđổ bộ Normandie vĩ đại chưa từng có trong lịch sử ngày 6/6-25/7/1944 với 2.052.299 quân do Thống Tướng Dwight D. Eisenhower (1890-1969) chỉ huy, giải phóng thủ đô Paris của nước Pháp khỏi tay Đức ngày 25/8/1944.

Nhưng sau đó, chính Charles de Gaulle lại muốn phục hồi chế độ thuộc địa. Trong lần trở lại VN này, Pháp đã nhờ Hoa Kỳ và được viện trợ khoảng 2,5 tỷ đô-la Mỹ.Nhưng rồi Tổng Thống Harry S Truman (1884-1972) của HK theo khuyến cáo của ThủTướng Winston Churchill (1874-1965) của Anh, không ủng hộ chính sách thực dân của Pháp nên bỏ rơi.

Sau đó Pháp tiếp tục chiến tranh trấn áp để duy trì chế độ thực dân cho đến khi mất thuộc địa Maroc năm 1956 và Algérie năm 1962 (là quốc gia thuộc địa Pháp cuối cùng tự giải phóng).
http://www.militaryhistoryonline.com/20thcentury/articles/chinesesupport.aspx

- Năm 1951-1953, CSTQ cũng cưỡng bách tái tổ chức bộ đội CSVN qua chính huấn, chỉnh quân, lập hệ thống chính ủy (thay ủy viên chính trị, quyền trên cả tư lệnh), bắt điều cả bộ đội qua đánh ở Lào, Campuchia… Những sĩ quan xuất thân là các học sinh, sinh viên, trí thức, quan lại, tư sản đã tham gia Vệ Quốc Đoàn từ những ngày đầu không được tin dùng, phục vụ như xưa nữa. Theo ông Hoàng Tùng, mụcđích tái tổ chức quân đội CSVN của TQ là nhắm vào Võ Nguyên Giáp vì không xuất thân từ giới công nông, nhưng nhờ được HCM che chở nên không bị hạ bệ,

Theo Hồi Ký của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh (1930-):
Năm 1952-1953 có thể gọi là mùa chỉnh huấn để chuẩn bị cho cuộc phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Tôi cũng được dự 1 cuộc chỉnh huấn tổ chức tại một khu rừng ở huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Hội trường căng một khẩu hiệu lớn “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong HồChí Minh”. Chúng tôi được nghe giảng về lý luận giai cấp, được nghe một số báo cáo điển hình của bần cố nông tố cáo tội ác của đế quốc, phong kiến. Học xong phải viết thu hoạch và kiểm thảo. Căng thẳng nhất là thời gian viết kiểm thảo.Để động viên mọi người tự phê bình thành khẩn, người ta giăng khẩu hiệu khắp nơi: hội trường, phòng ngủ, phòng ăn, giếng nước… đâu đâu cũng hô hào kiểm thảo thật thà, thành khẩn, nghiêm khắc. Bản kiểm thảo phải đọc trước nhóm để nghe tập thể bổ sung và phân tích phê phán. Thôi thì ai nấy đều phải tự bới móc khuyếtđiểm cho nhiều, chuyện nhỏ cũng xé ra to để qui kết là có tác hại đến nhân dân, tổ quốc…

Chúng tôi học văn, dạy văn nên thường mắc vào tư tưởng gọi là lãng mạn tư sản, từng say mê tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới v.v… Để bồi dưỡng lập trường giai cấp và lòng căm thù địa chủ phong kiến cho học viên, nhà trường tổ chức chiếu phim Bạch Mao Nữ. Đến đoạn địa chủ Hoàng Thế Nhân tỏ ra độc ác quá, bỗng nghe có tiếng ai đó hô lớn: “Đả đảo địa chủ phong kiến!”. Rồi chỗ này có người ngất, chỗ kia có người ngất. Y tá nhà trường chạy đi chạy lại cấp cứu rất vất vả.Lúc ấy tôi tự thấy quá kém về tình cảm giai cấp, vì chẳng cảm thấy xúc động gìđến nỗi phải ngất xỉu đi như thế. Có một điều rất lạ là giữa không khí chỉnh huấn nghiêm khắc như thế, mọi người đều tỏ ra ăn năn, sám hối, muốn rửa ruột, rửa gan, muốn tẩy não cho sạch như thế mà thỉnh thoảng vẫn xảy ra những vụ mất cắp và hủ hoá ngay trong đám học viên…

http://viteuu.blogspot.jp/2013/03/hoi-ky-cua-giao-su-nguyen-ang-manh-ky-2.html

Sau Chiến Dịch Biên Giới, HCM gửi thư cho Mao Trạch Đông, trong có đoạn: Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo: “Cảm ơn các đồng chí”, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đảng Cộng Sản Liên Xô anh em…

http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_%C4%90i%E1%BB%87n_Bi%C3%AAn_Ph%E1%BB%A7
http://www.youtube.com/watch?v=yHb9Pjya5JY&list=UUXwGYQwAIsGVLPPtgD4BPOA&index=1&feature=plcp

Báo chí CSVN có thời ca tụng Võ Nguyên Giáp hết lời về Chiến Dịch Điện Biên Phủ…,là “thiên tài quân sự”, nhưng thực ra Giáp không đi lính ngày nào, không học quân sự (chỉ học lóm về cách ném lựu đạn do Sĩ Quan OSS Prunier dạy cho), không học tham mưu ngày nào, chỉ mò mẫn làm hao tổn biết bao xương máu. Nói chung Giáp cũng chẳng có tài mà chỉ là sản phẩm của tuyên truyền, mọi lãnh vực với CSđều phải có “anh hùng kiệt xuất” làm biểu tượng.

Đùng một cái, theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28/5/1948, được Hồ Chí Minh đưa lên làm “Đại Tướng” (lúc Giáp 37 tuổi, đồng thời phong quân hàm Tướng cho một sốcán bộ khác), rồi thì cũng đùng một cái bị phe Lê Duẩn cho ra khỏi Bộ Chính Trịhồi năm 1982, cô lập… Có dư luận cho rằng Giáp được thăng hàm ngoại hạng 17 cấp vì Giáp là cột chèo với HCM, HCM cặp với Nguyễn Thị Minh Khai là chị còn Giáp lấy Nguyễn Thị Quang Thái là em. Nhiều người còn thắc mắc trên Đại Tướng còn Thống Tướng, Phó Nguyên Soái, Nguyên Soái rồi Đại Nguyên Soái… mà ít nhất cả 30 năm Giáp cầm quân “tài ba” như vậy sao không được thăng 1 cấp nào!?

Theo lời tự bạch về khả năng quân sự của Giáp trong cuốn “Tổng Tập Hồi Ký”(1.360 trang, khổ 19×27 cm, bao gồm 6 cuốn đã xuất bản trước đây), trang 12, như sau: “Bữa đó, anh Hoàng Văn Thụ đã nói với tôi: Tình hình này, sớm muộn thếnào bọn Pháp xít cũng sẽ chiếm đóng Đông Dương… Ta phải chuẩn bị nhiều mặt đểphát động chiến tranh du kích. Thời gian lúc ấy là tháng 5/1940. Mình không hiểu gì về chiến tranh du kích cả. Khi nghe Hoàng văn Thụ nói như thế nên một bữa nhân qua thư viện, tôi mượn Tập Bách Khoa Toàn Thư tìm xem phần giải thích loại vũ khí. Tôi xem kỹ đoạn nói về súng trường và lựu đạn.”…

Một số dư luận hết sức ngạc nhiên về lối đánh độc đáo của Giáp, nhưng thực ra chiến thuật đánh “giao thông hào” lại do chính cố vấn TQ đề ra, Giáp chỉ là kẻthừa hành. Giáp viết trong cuốn “Điện Biên Phủ Điểm Hẹn Lịch Sử” xuất bản năm 2000:

“Ngày đầu xuân Giáp Ngọ 1954, tôi sang lán của đồng chí Vi Quốc Thanh chúc tếtĐoàn Cố Vấn Quân Sự TQ vì sự nghiệp kháng chiến của nhân dân VN phải tiếp tụcăn 1 cái tết ở ngay mặt trận. Đồng chí Vi Quốc Thanh vui vẻ chúc mừng. Đồng chí cho biết: Sau khi phân tích rõ về chỗ mạnh chỗ yếu của địch và ta. Các cố vấn đều nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch. Đồng chí đã đề nghịQuân Ủy Trung Ương và Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Nhân Dân TQ gửi sang gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dựng trận địa chiến đấu đường hầm, kể cả cuốn “Thượng Cam Lĩnh”, để bộ đội VN tham khảo…
Do tuyên truyền, nhiều đảng viên CSVN và người dân vẫn còn cảm tình với Giáp, nhất là khi Giáp vượt qua tuổi 100, nằm thoi thóp trên giường bệnh. Một số người còn đề nghị phong quân hàm “Nguyên Soái Việt Nam” cho Giáp, cho đó là yêu cầu của lịch sử!

Nguyễn Thế Tường, 1 người khá thân cận với Giáp đã có bài viết 5 kỳ “Vị Tướng Thiên Tài Và Bình Dị” trên báo Thanh Niên… ngợi khen Giáp lên tới trời! Trong khi ai cũng thấy chưa hẳn Giáp có tài, Giáp có thật tiết kiệm từng giọt máu của binh sĩ hay là Tướng thí quân…, còn bình dị gì mà vào khu chiến vẫn sang trọng, bảnh chọe không giống ai với bộ vét trắng, đeo cà vạt, đi giày Tây, trong khi HCM mặc quần đùi, còn nhà Giáp ở Hà Nội là cả 1 dinh cơ…

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20100825/vi-tuong-thien-tai-va-binh-di.aspx
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20100831/vi-tuong-thien-tai-va-binh-di-hoc-de-hoan-thien-ban-than.aspx
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20100830/vi-tuong-thien-tai-va-binh-di-phuc-dung-nha-dai-tuong.aspx

Đặng Chí Hùng sau khi tra cứu nhiều tài liệu đã viết bài “Những Sự Thật Cần Phải Biết (phần 19) – Sự Thật Về Võ Nguyên Giáp”, nói lên con người thật hơn của Giáp.
Trong cuốn “Đường Tới Điện Biên Phủ” của Võ Nguyên Giáp, Chương I, chính ông Giáp đã khẳng định vài trò của Tướng TQ trong chiến dịch biên giới 1950 và Điện Biên Phủ sau này: “Khi trở về Bắc Kinh, Bác đề nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam nay mai sẽ đi vào đánh lớn. Bác gợi ý bạn cử đồng chí Trần Canh. Phía Trung Quốc trả lời đồng chí Trần đã được bố trí công tác rồi, và đưa ra danh sách gồm 4 người: La Quý Ba, Trung Ương Ủy Viên đảng CSTQ, Trưởng đoàn cốvấn, Vi Quốc Thanh, Trưởng Đoàn cố vấn về quân sự, Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưa, Mã Tây Phu, cố vấn về công tác hậu cần.”…

Trung tuần tháng 6/1950, Trung Ương đảng CSTQ cử đồng chí Trần Canh làm Đại Biểu sang VN, giúp đỡ tổ chức thực thi chiến dịch Biên Giới. Sau khi đến VN, đồng chí Trần Canh lập tức hội kiến Chủ Tịch Hồ Chí Minh, báo cáo với Hồ Chủ Tịch ý tưởng tác chiến tại biên giới đã suy nghĩ suốt dọc đường, đồng thời lập tức bôn tập ra tiền tuyến cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân VN trù hoạch tỷ mỉ kế hoạc tác chiến… Về chiến dịch Điện Biên Phủ khi đóĐại tướng Võ Nguyên Giáp là Tổng Chỉ Huy Chiến Dịch. Đồng chí Vi Quốc Thanh là Tổng Cố Vấn Quân Sự. Cố vấn quân sự các cấp của phía TQ ra tiền tuyến dốc toàn lực hiệp tác giúp đỡ…”.

Báo Quân Đội Nhân Dân của nhà cầm quyền CSVN dịch 1 bài viết của báo TQ ca ngợi công lao của Vi Quốc Thanh. La Quý Ba và Trần Canh tại chiến dịch Điện Biên Phủnhư sau: “Về vấn đề làm cố vấn như thế nào, Mao Chủ tịch nói: “Cố vấn thì là cốvấn, nhưng trên thực tế chính là tham mưu, làm tham mưu tốt cho các đồng chí lãnh đạo của người ta. Tham mưu chính là đề xuất chủ trương, nghĩ biện pháp, hiệp tác giúp đỡ lãnh đạo…

Các cố vấn TQ với kinh nghiệm nội chiến Quốc – Cộng, chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh nhân dân, chiến thuật biển người… thực chất là chỉ đạo tổ chức các chiến dịch, tác chiến. Giáp hoàn toàn không có kinh nghiệm, chỉ là học trò làm theo.
http://danlambaovn.blogspot.jp/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-19-su.html

Nếu Giáp bình dị, nhân ái, dễ mến, toàn tài như được đề cao là “Văn như Châu Nguyễn, Võ tỷ Lý Trần”…, vậy sao tới ít nhất 8 lần (xin xem phần Cuộc Thanh Trừng Nội Bộ Đảng CSVN! trong cuốn 2, bộ “Con Đường Dân Chủ” 12 cuốn của cùng tác giả) đảng CSVN lại trù dập, hạ nhục Giáp không còn thể thống gì cả!?

Trong số 8 tội mà TBT Đỗ Mười – Đại Tướng Lê Đức Anh đã tố Giáp thì có đến 4 tội về quân sự đó là: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch. Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ. Tết Mậu Thân 1968, Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn. Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B [chưa bao giờ vào chiến trường miền Nam trước 1975].”.

Ngô Minh viết cuốn “Tướng Giáp Trong Tôi”, xuất bản năm 2013, cố gắng khơi lại hình ảnh Giáp, mở đầu có đoạn:

Quà Tặng Xứ Mưa – Bạn đọc thân mến. Có một thời hình ảnh, tên của Đại Tướng Võ Nguyễn Giáp bị đục bỏ, bị cắt xén khỏi những sự kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam. Ngay trong lễ kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh Trên Biển (19/2011) [khởi đầu ngày 23/10/1961] cũng không 1 dòng nhắc đến Đại Tướng. Cuốn sách Huyền Thoại Tàu Không Số của nhà văn Đính Kính cũng không thấy có dòng nào nhắc đến người khởi đầu của con đường vĩ đại đó. Bởi thế mà Ngô Minh phải viết sách Cổ Tích Tàu Không Số (NXB Hội Nhà văn, 2011). Trong cuốn sách này có chương Võ Nguyên Giáp – Linh Hồn Của Đoàn Tàu Không Số. Ngô Minh nghĩ rằng, lịch sử Việt Nam có rất nhiều vị Tướng,rất nhiều chính khách, nhưng nổi bật nhất là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Hai con người vĩ đại này không chỉ tồn tại trong lịch sử mà còn vĩnh viễn tồn tại trong lòng dân. Mừng Đại Tướng 103 tuổi, QTXM xin in lại chương viết về Tướng Giáp, đã in trong Cổ Tích Tàu Không Số và ịn lại trong cuốn Tướng Giáp Trong Tôi (NXB Thuận Hóa, 2013).

http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/429731

Tại Việt Nam sau vài ngày có nhiều bài ca ngợi Võ Nguyên Giáp, bắt đầu có các bài nói về giai đoạn ông bị thất sủng.

Trên PetroTimes, Đại Tá nhà báo Nguyễn Như Phong thuộc ngành công an nói về “một số năm tháng Đại Tướng không được như ý, đặc biệt là giai đoạn Đại Tướng được phân công phụ trách Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia Đình”.

Tác giả nhắc lại rằng “Thời ấy, cũng đã có câu vè chua chát về việc này,”.
Đại Tá Phong còn bình luận: Xưa có câu “điểu tận cung tàng” nghĩa là chim hết thì cung bị xếp xó, và vận vào công việc mới của Đại Tướng ngày ấy mới thấyđúng làm sao. Lại nữa, vào năm 1984, khi Kỷ Niệm 30 Năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chẳng hiểu vì lý do gì mà người ta không mời Đại Tướng lên Điện Biên dự lễkỷ niệm, Đại Tướng phải lên thăm lại chiến trường xưa và bà con Tây Bắc với tưcách cá nhân. Rồi trong các hội thảo tuyên truyền về Chiến Thắng Điện Biên, người ta còn “ngại” không dám nói về vai trò của Đại Tướng…

Ông cũng nhắc lại rằng: Có một thời kỳ, khu vườn ở 30 Hoàng Diệu nom như vườn hoang, với lá cây rụng đầy, ít người quét dọn và những bức tường cỏ mọc rêu phong.
Các nhà nghiên cứu bên ngoài đã viết nhiều về thời gian quan điểm của Tướng Giáp không được các lãnh đạo toàn quyền như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Trưởng ban Tổchức Trung ương Đảng Lê Đức Thọ chấp nhận. Nhưng tại Việt Nam, các bài viết chính thống vẫn chỉ nhằm nêu bật các điểm son trong sự nghiệp của ông Giáp.

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh mô tả tâm lý người dân quê Tướng Giáp giai đoạn này trên trang Bấm giaoduc.net: Ngày ông không còn giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, người Quảng Bình buồn, có người lặn lội ra Hà Nội gặp ông để hỏi cho ra mọi nhẽ“Vì sao Bác lại bị thôi chức?” “Vì sao Bác nghỉ” – “Vì sao Bác không có ý kiến?”.Đó là sự thật.

Ông Nguyễn Như Phong viết: Không thể nói rằng những năm tháng đó đối với Đại Tướng là “thoải mái”, và càng không thể nói rằng công việc mới mà Đại tướng được giao là vừa ý đối với Người…
Một số nhà nghiên cứu cho rằng lãnh tụ Lê Duẩn không tin tưởng Tướng Giáp
Một số bài báo cũng nhắc đến các chi tiết “thật” hơn về Tướng Giáp. Chẳng hạn như chuyện ông không có tài diễn thuyết như Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại Tướng Lê Trọng Tấn hay ăn nói hấp dẫn kiểu bình dân như Thượng Tướng Đinh Đức Thiện.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/10/131010_general_giap_suffering.shtml

Jean Sainteny là chính khách uy tín, đã trở lại Hà Nội làm Tổng Đại Diện cho Pháp năm 1954-1958, và sau đó tới năm 1966 là đặc phái viên của Tổng Thống De Gaulle tại Miền Bắc trong cuốn “Lịch Sử Một Hòa Đàm Dang Dở” xuất bản năm 1953, tóm tắt một bi kịch lịch sử kéo dài 30 năm, phần phụ lục tiểu sử Tướng Giáp (đến năm 1948) viết: “Người nhỏ thó nhưng rắn rỏi, Võ Nguyên Giáp kết hợp óc thông minh xuất chúng với ý chí sắt đá và cá tính can trường.”.

Bernard Fall, sử gia Pháp lai Hoa Kỳ, Giáo Sư đại học Howard, chuyên gia hàng đầu về chiến tranh Việt Nam từ 1953 với cuốn “Đại Lộ Buồn Thiu” (1961) và nhiều tác phẩm khác. Theo Fall, sách của Tướng Võ Nguyên Giáp (1951 và 1952), chỉ phát triển những tư tưởng sẵn có. Trong “Les Deux Vietnam”, xuất bản năm 1967 tại Paris, Bernard Fall viết: “Sự đóng góp sáng giá nhất của Giáp trong chiến tranh cách mạng có lẽ là đã nhận định được thế yếu của những chế độ dân chủ khi phảiđương đầu với một chiến cuộc vô hạn định. Trong chế độ dân chủ, dân chúng sẽ đòi hỏi chính quyền phải chấm dứt ‘cuộc đổ máu vô ích’, quốc hội sẽ chất vấn…Điều này đúng với 1967 cũng như đã đúng với 1951…

Giáp đã phạm sai lầm lớn lao khi ngỡ là người Pháp đã chín muồi cho giai đoạn thứ 3 (tổng tấn công) từ mùa xuân 1951, và đã tổn phí 1 phần lớn của 3 Sư Đoàn mới thành lập.”, chống lại quân chính quy của tướng De Lattre, trong 2 Chiến Dịch Hoàng Hoa Thám…

Tác giả người Anh, Ducan Towon, xếp Võ Nguyên Giáp vào số 21 danh tướng thế giới qua 25 thế kỷ. Bách Khoa Toàn Thư Anh, 1985, tập 10, ghi tên 2 danh Tướng VN: Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2010/08/100828_french_on_giap.shtml
Truyền thông CSVN viết ông MacDonald là Đại Tướng, sử gia… tác giả cuốn“Giap: The Victor in Vietnam” với lời khen ngợi là “Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại… ”.
http://vnexpress.net/tin-tuc/ban-doc-viet/su-hoa-than-tu-nguoi-linh-huyen-thoai-den-doi-thuong-2893055.html
http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2013/10/329549/

Nhưng không dám nói tới cuốn sau.

Năm 1987, Chuẩn Tướng (Brigadier) Peter G. MacDonald của Quân Đội Hoàng Gia Anh, từng sang VN gặp Tướng Giáp đã viết cuốn “GIAP – Hai Cuộc Chiến Tranh Đông Dương” (GIAP – Les Deux Guerres d’ Indochine) 350 trang, do nhà xuất bản Perrin- Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: “Những tư tưởng của Tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người.” (Ses pensées transcrites sur le papier sont souvent mortellement ennuyeuses). Kết luận, Tướng P. MacDonald viết: “Từ khi còn trẻ, Tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng Sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, đểtừ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông…”.

Ghi chú:

E Tạp Chí (go Edu) trong bài “10 Vị Tướng Vĩ Đại Nhất Trong Lịch Sử Thế Giới”,mở đầu có đoạn: Tháng 2 năm 1984, Hội Đồng Khoa Học Hoàng Gia Anh đã xét phong 10 vị tướng tài của thế giới, chọn trong 98 vị từ cổ đại đến hiện đại. Chân dung 10 vị tướng được đúc tượng vàng và đặt trang trọng ở viện bảo tàng lớn nhất Luân Đôn. Việt Nam vinh dự là nước có có 2 người con ưu tú, đó là Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo – Đại Vương Trần Quốc Tuấn (cháu của vua Trần Thái Tông) và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.

http://edu.go.vn/e-tap-chi/tin/7/34/9807/10-vi-tuong-vi-dai-nhat-trong-lich-su-the-gioi.html

Năm 1993, báo Quân Đội Nhân Dân, Lao Động và Thanh Niên… đưa tin là tháng 2/1984, Hội Đồng Khoa Học Hoàng Gia Anh đã chọn trong 1 danh sách 98 viên danh tướng từ cổ chí kim, bỏ phiếu bầu ra 10 vị kiệt xuất nhất để đúc tượng vàng (!) sẽ được đặt tại viện bảo tàng London (!)…
Ngày 13/2/2010, Ban Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân đưa tin và nhân dịp Giáp 100 tuổi, Hồ Ngọc Sơn viết bài “Thiên Tài Quân Sự Võ Nguyên Giáp” nhắc lại trên cùng tờ báo: “Năm 1992, Hội Đồng Khoa Học Hoàng Gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có 2 vị Tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đặc biệt trong số những người được vinh danh, duy nhất Đại Tướng Võ Nguyên Giáp còn sống [Giáp chết ngày 4/10/2013].”.

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/56/58/58/103341/Default.aspx

Nhưng nhà báo Đỗ Văn BBC và Bùi Tín viết bài “Khen Quá Lố, Không Nên!” trên trang nhà VOA đã phủ nhận tin này, cho hay không hề có chuyện vinh danh như vậy.

http://www.voanews.com/vietnamese/news/tuong-giap-03-13-2010-87577032.html

Ngày 4/10/2013, nhân Võ Nguyên Giáp qua đời, nhà báo Bùi Tín trả lời đài RFA, trong có đoạn: “Tôi nghĩ ông Giáp là người có tài, một con người có ý chí, thếnhưng mọi cái cũng chỉ tương đối thôi. Tôi lấy ví dụ như là ở trong nước hiện nay vẫn còn đưa ra cái gọi là cái tin Hội Đồng Khoa Học của Hoàng Gia Anh có chọn 100 vị tướng trên toàn thế giới để mà biểu dương và 10 vị làm thành ra 10 tượng vàng. Tin đó là tin vịt. Tôi đã sang tận Anh cùng với anh Đỗ Văn để thẩm tra lại thì hoàn toàn không có. Thế nhưng hiện nay sách vở trong nước vẫn còn đăng những cái tin thất thiệt như thế. Bởi vì nếu cái tin đó là thiệt thì Hà Nội người ta sẽ in to lên nguyên văn và chụp ảnh những cái tượng để đưa lên. Những cái chuyệnđó là không hề có. Tin đó là thêu dệt.”

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vo-nguyen-giap-a-top-ranking-general-ml-10042013090627.html

Như vậy, Hội Đồng Khoa Học Hoàng Gia Anh theo truyền thông CSVN đã vinh danh Giáp tới 2 lần, năm 1984 và 1992? Mà thực ra không hề vinh danh lần 1 nào, tất cả chỉ là sản phẩm tưởng tượng, lừa bịp!
*
Người Hoa đánh giá họ Võ là “hèn Tướng”, trong trận Điện Biên Phủ vì chỉ núp trong hầm, Giáp không dám đi quan sát mặt trận B, tức miền Nam, vì sợ máy bay B-52 của Hoa Kỳ dập chết… Và chính cựu Đại Tá Bùi Tín, người được coi là khá tin tưởng ở Giáp sau cũng phải nói: “Anh Văn quá hèn.”, khi thấy có một số đàn em như: Tướng Hoàng Văn Thái, Đăng Kim Giang, Lê Liêm, Chu Văn Tấn, Trần Độ,các Đại Tá Đỗ Đức Kiên (Cục Trưởng Tác Chiến), Lê Trọng Nghĩa (Cục Trưởng Cục Quân Báo)… tất cả đều bị họ Lê, gồm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Lê Khả Phiêu và Lê Đức Anh trực tiếp ra tay hạ độc thủ, thế mà Giáp không hề có một thái độ cụ thể đểnào.

Trong “Hồi Ký Của Những Người Trong Cuộc” gồm 10 bài viết của 6 tác giả do nhà xuất bản Lịch Sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc ấn hành năm 2002, bản dịch tiếng Việt gồm 280 trang A4 của Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy năm 2009 để lưu hành nội bộ(tái soạn từ “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp” do nhà xuất bản Nhân Dân Giải Phóng Quân phát hành năm 1990), kểcông lao, tài ba của các Tướng CSTQ. Trong sách cũng nói tới những bất đồng rất gay gắt với Võ Nguyên Giáp nên đôi khi cố vấn CSTQ làm việc và lấy quyết định thẳng với Hồ Chí Minh…
Hồ Chí Minh và Trần Canh.
Sau khi bao vây Điện Biên Phủ cả tháng, Võ Nguyên Giáp định đánh ngày 20/1/1954, nhưng phải hoãn ngày tấn công nhiều lần đến 25/1 rồi 26/1, rồi 13/3, gần 2 tháng. Và ai cũng biết, Giáp cho lệnh kéo pháo vào lên các đồi cao quanhĐBP rồi lại kéo pháo ra, rồi lại kéo pháo vào, từ nơi xa trung tâm ĐBP 15 km đến còn cách khoảng 5-7 km (24 đại bác 105 ly mà CS gọi là lựu pháo… do CSTQ lấy của quân đội Tưởng Giới Thạch trong chiến tranh Quốc-Cộng và Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên 1950-1953…) cũng như thu quân về vị trí tập kết để thay đổi chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” (định đánh thắng trong 3 ngày đêm, đã dùng chiến thuật biển người trong giai đoạn đầu) sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Theo cựu Đại Tá Hoàng Minh Phương, đó là đề xuất của Võ Nguyên Giáp và được Vi Quốc Thanh đồng ý, và cũng là một đề tài để ca ngợi sự “sáng suốt, dũng cảm” của Giáp, thực ra điều này chứng tỏ Giáp thiếu tính toán và bất nhất. Thời đó, CSVN và CSTQ dấu nhẹm vai trò của CSTQ, nên mọi ca ngợi công lao tham mưu đều dành cho Giáp, thực tế không phải vậy.
Nhân đây cũng xin nói, theo Tố Hữu, bài “Hò Kéo Pháo” ra đời sau trận Điện Biên Phủ, khi đó vấn đề bảo mật là trên hết thì làm gì có chuyện hò với hét. Đi đánh trận chứ có phải đi trảy hội đâu mà ồn áo thế. Tố Hữu ở xa tận Việt Bắc, chưa từngđặt chân tới Điện Biên Phủ, nhưng như thường lệ, sau chiến thắng, tưởng tượng, làm bài thơ “Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên”…
Cả 3 người là Vu Hóa Thầm (bài 3), Vương Nghiên Tuyền (bài 6) và Trương Quảng Hoa (bài 8) đều ghi lại sự thay đổi chiến thuật là của Vi Quốc Thanh được Võ Nguyên Giáp đồng ý: Vi Quốc Thanh tưởng tượng ra một tình huống phức tạp về cơsở phòng ngự của địch… Vì vậy, cần thay đổi phương châm tác chiến. Biến “đánh nhanh thắng nhanh” thành “đánh chắc thắng chắc”, từ ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một.
- Ngày 24/1/1954 Quân Ủy Trung Ương đảng CSTQ đánh điện chỉ thị Vi Quốc Thanh vềchiến lược tấn công Điện Biên Phủ: “Khi tấn công Điện Biên Phủ đồng chí nên tránh tấn công đồng loạt từ mọi phía; thay vào đó đồng chí cần có chiến lược tách nhỏ và bao vây lực lượng địch và từng miếng tiêu diệt chúng.” (“Đánh chắc, tiến chắc” – TGT).
Khi nhắc lại chuyện kéo pháo vào rồi kéo pháo ra này kiểu bài thơ con cóc (Con cóc nhảy ra, Con cóc ngồi đó, Cón cóc ngồi đó, Con cóc nhảy vào, Con cóc nhảy vào, Cón cóc ngồi đó, Cón cóc ngồi đó, Con cóc nhảy ra…), Võ Nguyên Giáp trong cuốn “Điện Biên Phủ – Điểm Hẹn Lịch Sử” ở chương “Quyết Định Khó Khăn” cho là “Tôi đã đạt được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình.” (tr 45, sđd). Phải chăng điều ông lo lắng chỉ là cái tự ái vì danh hão khi lật ngược quyết định của chính mình. Sợ bộ đội và dư luận thấy rõ sự thiếu suy nghĩ, khuyết điểm lớn của ông khi “điều quân” mà thôi!? Khiến bộ đội vất vả vô ích cả tháng trời, cuộc điều quân dễ bị lộ hơn… chỉ vì thiếu chuẩn bị, chưa quen đánh hiệp đồng giữa pháo binh và bộ binh, chưa quen công kiên chiến (tiến công tiêu diệt quân địch phòng ngự có công sự kiên cố bằng binh lực, hỏa lực mạnh)… và sợ Pháp tấn công, trả đũa!
http://hocmoingay.blogspot.com/2009/05/quyet-inh-kho-khan-nhat-trong-oi-chi.html
Vậy tại sao trước đó, có cả năm trời nghiên cứu chiến dịch mà Võ Nguyên Giáp và Ban Tham Mưu không thấy những điều này, vì mắc bệnh chủ quan, duy ý chí, đến khi vào việc thì sợ, nhất là sợ tiếng nói của cố vấn TQ chăng!?
CSVN có khoảng 60.000 quân dùng súng trường Nga SKS… và 230.000 dân công. Gồm 11 Trung Đoàn Bộ Binh thuộc các Đại Đoàn 304, 308, 312 và 316 (là 4 Sư Đoàn trong tổng số 6 Sư Đoàn của CSVN), 1 trung đoàn công binh, 24 khẩu pháo 105 ly, 24 khẩu 75 ly, 16 khẩu súng cối 120 ly), 24 khẩu cao xạ 37 ly (sau thêm 12 khẩu) thuộc của Đại Đoàn Công Pháo 351 (công binh – pháo binh), chỉ có hơn 20.000 viên đạn pháo lớn.
Pháp có 16.000 quân dùng súng trường MAS-36… và 3.000 cu-ly đóng tại tập đoàn liền hoàn 8 căn cứ. Gồm 24 khẩu pháo 105 ly – sau đợt 1 được tăng thêm 4 khẩu, 4 khẩu pháo 155 ly, 20 khẩu súng cối 120 ly… với hơn 100.000 viên đạn súng lớn, 1 tiểu đoàn công binh, 10 chiếc M24 Chaffee xe tăng 18 tấn của HK, 200 xe vận tải, 7 máy bay khu trục, 6 máy bay liên lạc trinh sát, 1 máy bay trực thăng.
Pháp có ưu thế về hỏa lực (nhưng quân và pháo của CSVN tản chung quanh khó bắn chính xác), không yểm (nhưng bị phòng không CSVN khống chế, phải tiếp tế bằng dù nên thường bị lọt ra ngoài), phòng thủ vững chắc có nơi tới 7 lớp rào và mìn… nhưng tính sai nỗ lực táo bạo của CSVN, cho là họ không thể có hậu cần mạnhđể theo đuổi chiến dịch lâu dài, không thể đem pháo lớn tới gần…
Võ Nguyên Giáp và bộ đội của ông vẫn không tin tưởng sẽ chiến thắng. Vì bộ độiđã từng bị thiệt hại nhiều về nhân mạng trong những trận đánh liều mạng trướcđó, như… ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản, nhỏ hơn Điện Biên Phủ nhiều, ta mới đánh từng Tiểu Đoàn, chỉ có công sự dã chiến mà còn “thương vong đến mức không thể chấp nhận được”, phải dừng lại.
Trong bài “Đại Tướng Võ Nguyên Giáp – Huyền Thoại Và Không Phải Huyền Thoại: Quyết Định Khó Khăn Nhất”, nói về ngày 26/1 quyết định ấy có đoạn: Ông thấy không gì tốt hơn, hay hơn là nhắc lại lời Bác Hồ dặn mình trước khi đi chiến dịch: Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh. Ông hỏi từng người, không một ai dám đảm bảo sẽ thắng. Thắng 100%! Đến lúc ấy ông mới kết luận: Để đảm bảo đánh chắc thắng, phải chuyển từphương châm đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc tiến chắc. Hoãn tiến công, lui về địa điểm tập kết. Mệnh lệnh lui quân phải được chấp hành như mệnh lệnh chiến đấu.
Vì sao lại khó khăn nhất? Một, phải thuyết phục được Trưởng Đoàn Cố Vấn. Hai, phải thuyết phục được cả Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch. Ba, phải vượt qua chính mình. Phải có can đảm thế nào, bản lĩnh thế nào, phải tài năng thế nào mới dám tin mình đúng, ý kiến của tất cả mọi người nghĩa là của tập thể, trước đó là không còn phù hợp nữa…
Thực ra chỉ là Giáp tìm cách gỡ rối cho quyết định sai lầm trước đó, đem Hồ Chí Minh ra làm lá chắn, có gì ghê gớm đâu mà phải đề cao. Sao không ai trong những cán bộ CSVN dám nhắc tới cái tội sai lầm lớn trước đó của Giáp!
http://www.tienphong.vn/phong-su/510712/quyet-dinh-kho-khan-nhat.html
Kết quả chiến dịch, CSVN bị khoảng 6.000 chết, 12.000 bị thương, 800 mất tích, trong khi Pháp bị khoảng 2.000 chết, 1.700 mất tích, 5.240 bị thương, có 11.700 bị bắt làm tù binh. Nếu Giáp có ít quân hơn và bị thiệt hại ít hơn mà thắng thì mới gọi là tài, còn tương quan nghiêng hẳn về phía CSVN như thế thì hầu như Tướng nào cũng có thể đánh thắng. Hầu hết các trận đánh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy hay của CSVN sau này (như trận đánh trại Biệt Kích K’Nak, tỉnh Gia Lai ngày 7-8/3/1965, chết 471 bộ đội và hàng mấy trăm người của lực lượng phụ thuộc khác) cũng thường diễn ra như vậy, lấy đông và mạnh áp đảo mà thường thiệt hại rất nặng.
Trong cuốn “Hồi Ký Trần Canh”, do nxb Nhân Dân Giải Phóng Quân ấn hành tại Bắc Kinh năm 1984, Trần Canh miêu tả Võ Nguyên Giáp là người “quay quắt, không chính trực và không lương thiện lắm” (slippery, and not very upright and honest). Theo Trần Canh, có lần Giáp phàn nàn với Trần Canh về những phê bình của La Quý Ba về Giáp, nhưng khi La Quý Ba có mặt thì Giáp lại luôn tỏ vẻ chân tình và nồng nhiệt.
Trong Chiến Dịch Biên Giới, bộ đội tấn công quân Pháp ở Đông Khê ngày 16/9/1950 bị thiệt hại nặng nên rút ra. Trần Canh và Vi Quốc Thanh biết được tình hình này lập tức đến Bộ Chỉ Huy Tiền Tuyến Quân Đội Nhân Dân, gặp Võ Nguyên Giáp, cùng nghiên cứu nguyên nhân tấn công bị thất bại, ra lệnh cho bộ đội điều chỉnh sự bố trí, bao vây chặt, đề phòng địch phá vây, đến tối sẽ tấn công lại… Cũng như trận phục kích và tấn công đoàn quân tiếp viện của Lepage ở núi Cốc Xá, sốthương vong của bộ đội CSVN trong cuộc tấn công ngày 5/10/1950 khá lớn, cán bộkêu khổ, Võ Nguyên Giáp đề nghị cho quân nghỉ ngơi, chỉnh đốn, nhưng Trần Canh cho rằng “chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi” và dọa nếu không đánh tiếp sẽ bỏ về Trung Quốc…
Trần Canh ghi lại những khuyết điểm về tổ chức của bộ đội Việt Minh: khả năng truyền thông, kỷ luật, cán bộ chính trị chưa giỏi, tham nhũng, thiếu can đảm và không huy động phụ nữ đúng theo học thuyết “chiến tranh nhân dân”.
Sau khi quân CSVN chiếm được các cụm cứ điểm Him Lam (Béatrice), Độc Lập (Gabrielle), Bản Kéo (Anne-Marie), cánh cửa phía bắc xuống lòng chảo đã mởthông. Nhưng phân khu trung tâm của Pháp vẫn còn 4 trung tâm đề kháng gồm trên 30 cứ điểm liên kết chặt chẽ với khoảng 10.000 quân, có sở chỉ huy, các căn cứhoả lực, các đơn vị xe tăng và sân bay. Quân CSVN muốn tràn xuống Mường Thanh đểtiến công vào sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm.
Trong trận tấn công Điện Biên Phủ đợt 2, đợt tiến công đồi A1 (Pháp gọi là Eliane 2, ở phía đông-nam, có đường 19 chạy ngang, cao hơn mặt đất 49 m, dài 200 m, rộng 80 m hình bầu dục, bao bọc bởi đồi và cứ điểm A2, A3, C1, C2, D1, D2, D3, E1, F và đồi Cháy… 5 lớp hàng rào nhiều kiểu với các bãi mìn, dày khoảng 100 m, do 3 Tiểu Đoàn Bộ Binh phòng thủ) đợt 1 kể từ ngày 30/3/1954, khi quân sốkhoảng 2 Sư Đoàn bộ đội đánh cứ điểm đồi A1 và C1 (cao 51 m, phía bắc A1 khoảng 200 m) thuộc trung tâm Mường Thanh cả tuần bị thiệt hại nặng mà vẫn không xong. Về mặt trận này có đoạn: Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1, liền ra lệnh tấn công C1. Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh quyết định điều Trung Đoàn 102 [do Nguyễn Hùng Sinh chỉ huy thay thế Trung Đoàn 174 do Nguyễn Hữu An chỉ huy bị thiệt hại quá nặng chỉ còn Đại Đội 674 của Tiểu Đoàn 1 là tương đối còn nguyên vẹn (sau trận đánh đêm 31/3 qua ngày 1/4 chỉ còn 8 người), trong khi Trung Đoàn 98 đột phá sang C2 cũng bị chặn lại] của Đại Đoàn 308, ngày 11/4 tấn công Đồi C1, kết quả bị hỏa pháo địch sát thương nặng, toàn Trung Đoàn thương vong trên 700 người [con số cuối cùng là 890 người], không thể tiếp tục chiến đấu. Trung Đoàn 102 là Trung Đoàn chủ lực của Đại Đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu Chiến Dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này…
Trung Đoàn 174 và Trung Đoàn 102 đều bị tổn thất nặng, phải bổ sung thêm cả các lực lượng vận tải vệ binh vào các đại đội chiến đấu. Lực lượng chung của 2 Trung Đoàn tổ chức ghép lại được có 3 Đại Đội chiến đấu. Sau trận tấn công lần thứ 3 đêm 1/4 qua ngày 2/4, tất cả chỉ còn gần 1 Trung Đội. Trận tấn công lần thứ 4 đêm 2/4 qua ngày 3/4, lực lượng tác chiến chủ yếu là Đại Đội Bộ Binh mới tổ chức, kết hợp với bộ phận còn lại trong cứ điểm nhưng vẫn không chiếm được A1, phải rút lui.
Cả hơn 1 tháng sau, Đại Đội Công Binh M83 của Trung Đoàn Công Binh 151 thuộc ĐạiĐoàn 351 mới đào được đường hầm dài tới 82 m dẫn lên tận đỉnh đồi, rồi đặt khối bộc phá 1 tấn.
Ngày 6/5, khối bộc phá được kích nổ cách hầm ngầm chỉ huy của Pháp vài chục mét, thổi bay lô cốt, tiêu diệt phần lớn Đại Đội Dù 2, mở đầu cho đợt xung phong tấn công Điện Biên Phủ thứ 3 chiếm đồi A1, C1 và A3… sáng ngày 7/5.
Chỉ 1 ngày sau bộ đội CSVN đã có thể thọc sâu tiêu diệt sở chỉ huy bắt sống Chuẩn Tướng Pháp Christian de Castries (1902-1991) cách đó vài trăm mét, dẫn đến sự đầu hàng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ và rút khỏi VN.
Tổng kết, phía CSVN có 1.004 chết và 1.512 bị thương, phía Pháp có 376 chết và 452 bị thương hoặc bị bắt. Đây là trận đánh mà bộ đội CSVN chịu thiệt hại lớn nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_%C4%91%E1%BB%93i_A1
Chính Trần Canh đã khuyến cáo đánh Đông Khê và Thất Khê trước theo kiểu “côngđiểm diệt viện” tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binhđoàn Lepage từ Lạng Sơn lên đón, thay vì đánh Cao Bằng và không đánh về đồng bằng sông Hồng hay Thanh Hóa theo quan điểm của HCM và Võ Nguyên Giáp… mà đánh các cứ điểm biên giới để mở rộng hành lang với TQ dễ dàng cho việc tiếp viện.
- – – – -
Theo bộ “Quyết Chiến Điện Biên Phủ, Thượng – Trung – Hạ”. (đăng trong Thượng Tướng Phong Vân Lục, nhà xuất bản Đại Bách Khoa Toàn Thư, ấn bản năm 2000, của tác giảVương Chấn Hoa, bút danh là Vũ Hóa Thẩm (Bản dịch của Dương Danh Dy).
Chiều 1 ngày trung tuần tháng 10/1953, Vi Quốc Thanh về báo cáo với Mao TrạchĐông.
Vi Quốc Thanh theo sát Bành Đức Hoài bước vào phòng sách cũng là phòng tiếp khách của Mao Trạch Đông. Mao bắt tay từng đồng chí và mời họ ngồi. Bành Đức Hoài nói: “Thưa Chủ tịch, đồng chí Vi Quốc Thanh gần đây sắp trở lại VN, lần này đến xin Chủ tịch chỉ thị trực tiếp”
Mao Trạch Đông: “À! Tôi cũng đang muốn gặp các đồng chí cùng bàn tình hình và chiến sự của VN.”. Sau đó, ông nói với Vi Quốc Thanh: “Đồng chí đã xem kế hoạch quân sự của Navarre chưa?”
Vi Quốc Thanh trả lời: “Bộ Tổng Tham Mưu có cho tôi xem rồi”. Mao Trạch Đông lại hỏi: “Đồng chí có ý kiến gì không?” Vi Quốc Thanh trả lời: “Đây là sự tiếp tục của kế hoạch De Lattre, tiền nhiệm của ông ta. Điểm chung của họ là ra sức phát triển nguỵ quân, thay quân Pháp chốt giữ cứ điểm, dùng người Việt đánh người Việt, làm cho quân Pháp có thể tập trung tổ thành lực lượng đột xuất làm nhiệm vụ tác chiến cơ động, để giành lại quyền chủ động chiến tranh. Ông ta nêu ra, trước hết giành thế thủ ở Bắc Bộ và ráo riết càn quét và tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ,sau khi ổn định hậu phương chiến lược, ông ta sẽ tập trung binh lực quyết chiến với chủ lực quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ. Phương châm quân sự Nam trước Bắc sau này là sự phát triển của Navarre cũng là do tình thế bắt buộc ông ta như vậy ”
Mao Trạch Đông hỏi tiếp: “Cuối tháng 8 Trung Ương có điện cho La Quý Ba, đồng chí đã xem chưa?” Bành Đức Hoài trả lời: “Tôi đã cho người đưa đồng chí xem rồi.”.Vi Quốc Thanh nói: “Phương châm chiến lược của Trung Ương vạch ra cho Việt Nam mâu thuẫn gay gắt với kế hoạch của Navarre. Thực thi phương châm chiến lược này sẽ hoàn toàn đập tan tính toán chỉ tính đến 1 phía của Navarre.”…
Mao Trạch Đông nói tiếp: “Tôi thấy hướng tác chiến của Việt Nam trong suốt thời kỳ từ nay về sau là nên hướng vào Trung, Nam Bộ. Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, trước mắt cần áp dụng một số biện pháp thiết thực. Tôi nghĩ đến 3 biện pháp thế này:
1 là dùng 2 Đại Đoàn bộ binh và nửa Đại Đoàn pháo binh, trước tiên giải quyết địchở Lai Châu, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc, căn cứ chiến lược quan trọng này. Sau đó chuyển quân sang Thượng Lào, mở thêm chiến trường Thượng Lào. Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, đưa 1 bộ phận binh lực xuống Trung Lào và Hạ Lào.
2 là kiên quyết khai thông con đường Nam tiến (chỉ con đường từ nam Liên Khu 4 Trung Bộ lên Trung, Thượng Lào, qua Quốc Lộ 9 đến Tây Nguyên). Đó là đường giao thông huyết mạch của bộ đội, đánh xuống phía nam sau này, quan hệ rất lớn đến tình hình chiến sự tương lai. Nên đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn hoàn thành. Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, thái độ đối với làmđường tức là thái độ đối với chiến tranh. Làm đường không tích cực, không nghiêm túc tức là không tích cực, không nghiêm túc giành lấy thắng lợi chiến tranh.

3 là Liên Khu Việt Bắc, Liên Khu 3, 4 mỗi nơi nên điều động 1 số cán bộ đảng, chính quyền, quân đội đến Trung, Hạ Lào và Nam Bộ VN làm công tác mở vùng mới, làm cho bộ đội đánh được nơi nào, thì củng cố nơi ấy. Giống như thời kỳ sau chiến tranh giải phóng, chúng ta điều động cán bộ miền Bắc theo Đại Quân xuống miền Nam.

Nói tóm lại, 3 biện pháp này tức là 12 chữ: 2 Đại Đoàn Rưỡi, 1 đường quốc lộ, 3 lớp cán bộ ”.

Vi Quốc Thanh nói: “Chỉ thị của Chủ Tịch rất quan trọng. Sau khi tôi sang, sẽtruyền đạt tỉ mỉ cho phía VN và các đồng chí cố vấn, nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành”. Mao nói: “Có thể nói với các đồng chí VN, đó là kiến nghị của tôi”.

Bành Đức Hoài nói: “Tôi đã nói với đồng chí Quốc Thanh ý kiến của tôi về tình hình chiến tranh VN và tác chiến Tây Bắc rồi. Xin nói thêm một việc. Bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre mà Cục Tình Báo Bộ Tổng Tham Mưu lấy được, có thểmang sang cho các đồng chí VN xem, điều đó giúp ích cho các đồng chí ấy tìm hiểu kẻ địch, phân tích tình hình. Có điều phải chú ý bảo mật ”(Trich dẫn Hồi Ký CốVấn TQ tr 43-46).
Vi Quốc Thanh sau khi về dưỡng bệnh và trở qua lần thứ 2 ngày 25/10/1953, đãđưa trực tiếp cho HCM bản kế hoạch quân sự của Tướng Henri Navarre bằng tiếng Pháp do Cục Tình Báo Bộ Tổng Tham Mưu TQ lấy được.

Tài liệu của Quân Ủy quân đội CS số 03 (BC-03/QU) ngày 12/12/1953 ghi rõ: “Phía Trung Quốc nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh có thểchuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương. Tháng 9, Bộ Chính Trị không thông qua kế hoạch củađồng chí Võ Nguyên Giáp mà phải thực hiện theo kế hoạch của các đồng chí cố vấn Trung Quốc. Ngày 27/10/1953, Đồng chí Vy Quốc Thanh trao cho chúng ta một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, quân ủy nhận thấy đề nghị của Trung Quốc là đúng. Toàn quân, nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.”.

Theo nhà báo cựu Đại Tá Bùi Tín: “Ông Giáp thường không có thói quen ra thị sát mặt trận. Ở trận chiến Điện Biên Phủ…, tại Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch – bao giờ cũng trải vài tấm bản đồ, tay thì chỉ chõ – đóng kịch – như thể đánh nhau chỉ cần chỉchõ bằng bản đồ – và ông trú ẩn an toàn tại Bộ Chỉ Huy ĐBP tại hang Thẩm Púa, thuộc Mường Phăng. Hang Thẩm Púa cách Điện Biên Phủ bao nhiêu cây số, thưa Đại Tướng? Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, ông đi thị sát mặt trận, quần áo chỉnh tề, chân đi giầy ủng cao đến đầu gối!”. Như vậy là quá đủ để nói về một vị Tướng“tài” như ông Giáp thời chống Pháp.
http://danlambaovn.blogspot.jp/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-19-su.html#.Uiku8kaCjmQ
*
Trong Trận Tổng Công Kích Mậu Thân 1968, Giáp cũng hầu như bị gạt ra ngoài, giờphút chót mới từ hải ngoại về Hà Nội, trong khi khoảng 30 người của Giáp bị bắt giữ.
Theo ông Lê Đăng Doanh trong bài “Chữ “Nhẫn” Của Đại Tướng” viết ngày 10/10/2013 trên VNEconomy, trong chiến dịch Quảng Trị 1972, ý kiến của ông vềchiến lược và chiến thuật bị bác bỏ. Tổn thất to lớn trong chiến dịch Quảng Trịlà một bài học đau xót.
http://vneconomy.vn/20131010054547735P0C9920/chu-nhan-cua-dai-tuong.htm
Thực ra, toàn bộ là “Chiến Dịch Xuân-Hè 1972” lần đầu tiên quân CSVN liên tiếp mở trận địa chiến với 3 mặt trận chính tại miền Nam là Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông-Nam Bộ. Tổng lực lượng huy động trong chiến dịch này lúc đầu là 14 Sư Đoàn và 26 Trung Đoàn độc lập, bao gồm khoảng 120.000 quân (về sau khi cuộc chiến kéo dài đã tăng thêm khoảng 40.000 quân), 300 xe tăng và xe bọc thép, khoảng 300.000 quả đạn pháo là 3/4 tổng số lượng có được… tuy có làm cho VNCH và HK e ngại, nhưng đều bị thiệt hại nặng nề!

Vi Quốc Thanh là người chủ yếu trong việc thiết kế trận Điện Biên Phủ, việc đào hầm bao vây trong đợt 3, chia cắt quân Pháp cũng là ý kiến và hỗ trợ của Trung Quốc, dẫn đến việc đặt 1 tấn chất nổ TNT tại hầm chỉ huy của Pháp ở A1… đưa đến chiến thắng cuối cùng. Năm 1978, khi 2 đảng bất đồng, chính Vi Quốc Thanh đã nói: “Phải dạy cho Việt Nam bài học.”.

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và nhà báo quân đội Bùi Tín.
Ngày 5/10/2013, nhân Võ Nguyên Giáp qua đời, nhà báo Bùi Tín trả lời đài VOA, trong có đoạn:
“Về Chiến Dịch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm tài năng chỉ huy của Tướng Giáp. Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến dịch này, ôngđã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký “Quyết định khó khăn nhất” đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng 11/1953, Bộ Tổng Tham Mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công theo phương châm “đánh nhanh giải quyết nhanh” (khoái tả khoái diệt), theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự, chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng Cố Vấn Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt, thường gọi là “biển người”. Đầu tháng 1/1954, Tướng Giáp lên đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26/1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả tậpđoàn cứ điểm.
Nhưng cả đêm 25/1, Tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến thắng. Trưa 26/1, ông họp Đảng Ủy Mặt Trận cùng 3 Tướng: Hoàng Văn Thái, Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tham Mưu Trưởng Mặt Trận; Lê Liêm, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị kiêm Chủ Nhiệm Chính Trị Mặt Trận; Đặng Kim Giang, Phó Chủ Nhiệm Hậu Cần kiêm ChủNhiệm Hậu Cần Mặt Trận. Sau khi nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, Tướng Giáp đưa ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc tiến chắc”, nghĩa là: đánh dũi theo đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn làm công cụtiến công chính. Cả 3 Tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau này động viên trở lại rất khó.Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, Tướng Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo phương châm cũ không, thì cả 3 Tướng nói trên đều không trả lời được. Ông dùng quyền Bí Thư Đảng Ủy Mặt Trận, quyền Tư Lệnh Chiến Dịch kết thúc cuộc họp, dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững chắc, cần thay phương châm tác chiến sang “đánh chắc tiến chắc”, ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau. Việc thay đổi phương châm, rút pháo ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10/3 mở cuộc tiến công vào cứ điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7/5/1954 toàn thắng, cũng qua hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được Tướng Giáp coi là “Quyết định khó khăn nhất” trong đời ông. Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉhuy mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại Tá Nguyễn Hiếu ở Sở Chỉ Huy Chiến Dịch và Đại Tá Cục Phó Quân Báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về sau, nhiều sĩ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong muốn thì 4 Sư Đoàn tiến công – vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến – sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự TQ đều bất ngờ khi Tướng Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏra tán thành.
Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4/1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ, Tướng Westmoreland nói với tôi rằng: “Tôi công nhận tài năng của Tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như Tướng Giáp là một viên Tướng Hoa Kỳ thì ông đã bịmất chức từ lâu rồi, vì Quốc Hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy.”.
Tôi nghĩ nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng Sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sĩ cuối cùng đã trở nên phũphàng, mỉa mai, không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của Tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân Đội Nhân Dân. Ông mang danh là một viên Tướng “Sát Quân”, sát quân 1 cách lạnh lùng…”
Thực ra nếu chỉ thay chiến thuật của chính mình thì có gì là ghê gớm với tài năng. Sao không nói tới cái sai lầm chết người trước đó!? Các dữ kiện cho thấy Giáp nóng vội nhưng cuối cùng sợ thất bại nên phải hoãn lại chuẩn bị kỹ hơn mà vẫn phai tra 1 giá quá đắt…
http://www.voatiengviet.com/content/dai-tuong-vo-nguyen-giap-nhu-toi-tung-biet/1763195.html
Với quân số đông đảo gấp bội, hỏa lực dồi dào hơn, thì thắng là chuyện bình thường, nhưng tổn thất lớn gấp bội hơn phía Pháp là cái dở của Giáp và cố vấn CSTQ.
Và theo đà đó, miền Bắc Việt Nam năm 1945, 54 rồi Nam Việt Nam năm 1975 lần lượt bị đặt dưới sự cai trị của Cộng Sản.
Thống Tướng William Childs Westmoreland, Tư Lệnh Quân Đội HK tại miền Nam Việt Nam, viết về Tướng Võ Nguyên Giáp như sau: “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻthù) ghê gớm… Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ,ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, 1 sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự…” (Of course, he was a formidable adversary… By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius…).
http://en.wikipedia.org/wiki/William_Westmoreland
Ngày 4/10/2013, báo New York Times đăng lời Tướng Westmoreland: “Bất cứ Tướng lãnh Hoa Kỳ nào gây tổn thất to lớn như Tướng Giáp không thể tồn tại trong 3 tuần.”. (Any American commander who took the same vast losses as General Giap would not have lasted three weeks. NYT).
http://www.nytimes.com/2013/10/05/world/asia/gen-vo-nguyen-giap-dies.html?_r=0
Ông Giáp nhìn nhận cuộc chiến tranh này là: “Cuộc chiến tàn ác nhất trong lịch sử con người” (The most atrocious conflict in human history), nhưng nhân cuộc hội thảo tại Hà Nội ngày 20-23/6/1997, có sự tham dự của ông nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng HK Robert McNamara (2 người từng gặp nhau tại Hà Nội ngày 9/11/1995) với hy vọng xem xét lại cuộc chiến để tìm ra những cơ hội bỏ lỡ (missed opportunities) đã cho thấy sự khác biệt nền tảng giữa 2 người về chiến tranh.
McNamara khiêm tốn đưa ra nhận xét: “Chúng ta cần rút ra bài học từ đó cho phép chúng ta tránh được một thảm kịch như thế trong tương lai.”.
Ông Giáp đáp lại một cách một cách thẳng thừng: “Những bài học thì quan trọng thật Tôi đồng ý. Tuy nhiên, ông đã sai lầm khi gọi cuộc chiến tranh là 1 thảm kịch! Có thể nó là 1 thảm kịch đối với ông, nhưng đói với chúng tôi, chiến tranh là một sự hy sinh cao cả. Chúng tôi không muốn đánh nhau với người Mỹ, nhưng các ôngđã không cho chúng tôi một chọn lựa nào khác.”.
Christian G. Appy, “Patriots: The Viet Nam War Remembers From All Sides” (Những Người Ái Quốc), trang 43.
Dịp này Giáp nói: “Tôi là 1 quân nhân, nếu các ngài đồng ý, tôi nói thẳng rằng:“Chính sách (mở rộng chiến tranh của Mỹ) quyết định rồi nhưng phải tìm một cái cớ đưa ra Quốc hội!”. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là sai lầm lớn nhất, vềchiến lược và cũng là thảm bại đầu tiên và lớn nhất của lịch sử nước Mỹ.”.
Ông McNamara bật dậy ngắt lời: “Xin lỗi Đại Tớng, ngài nói không đúng.”.
http://news.zing.vn/Cuoc-gap-an-tuong-cua-tuong-Giap-va-McNamara-post346517.html
Quan điểm của Giáp chính là bản chất hiếu chiến, háo thắng cố hữu của những con người CS, để củng cố quyền hành và cái danh của mình bất chấp sự hy sinh của dân tộc, cũng như chỉ có tầm nhìn cục bộ thiếu toàn diện cho hòa bình và tương lai đất nước.
Thêm nữa, khi mở Chiến Dịch “Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy” Tết Mậu Thân 1968 (đánh khoảng 41 thành phố tức khoảng 2/3 lãnh thổ miền Nam) trong lúc Võ Nguyễn Giáp đi khám bệnh ở Hungary đến ngày trước khi mở trận đánh mới về tói Hà Nội hay trận Hạ Lào năm 1971, Quảng Trị năm 1972 và Chiến Dịch HCM 1975 đều dùng Văn Tiến Dũng là chính, Giáp không có quyền “Tổng Tư Lệnh” của Bộ Trưởng Quốc Phòng như vị thế của mình. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã chuẩn bị cả chỗ an trí giam lỏng Giáp nhưng chưa thực thi, sau đó năm 1983, cho Giáp làm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch tức rớt xuống đi làm “cai đẻ”… Vì vậy mới có thơ:
Ngày xưa Đại Tướng cầm quân, Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!
Hay:
Ngày xưa Đại Tướng công đồn, Ngày nay Đại Tướng công l… chị em.
Hay:
Võ Nguyên Giáp không còn manh giáp!
Giáp lên xuống dễ dàng, từ thập niên 80, Giáp chỉ còn là hình thức bù nhìn, lâu lâu đeo quân hàm “Đại Tướng” ra tiếp khách, trang trí cho chế độ, chứ Giáp nhiều lần thiết tha viết thư kiến nghị những vấn đề trọng đại của đất nước mà chẳng ai nghe!
- Năm 2010, tới tuổi 100, Võ Nguyên Giáp yếu lắm rồi, khuôn mặt lộ rõ nét ngờnghệch hầu như vô cảm, chỉ có nằm, nhưng vẫn phải tiếp tục “cân đai” đóng kịch khi Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đem giấy mời dự “Đại Lễ 1000 Năm Thăng Long – Hà Nội” tới. Giáp và đảng CSVN vẫn chơi trò tuyên truyền, tưởng có thể “lộng giả thành chân”.
Võ Nguyên Giáp từng làm Bộ Trưởng Nội Vụ (Công An) năm 1945, cho tay chân sát hại các nhân vật tên tuổi như Cung Đình Vận, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, cũng nhưPhan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Tạ Thu Thâu là các lãnh tụ Đệ Tứ CS Quốc Tế và là một hung thần giết người Quốc Gia… mà gán cho tội “trộm cắp, hiếp dâm” hay “Việt gian phản quốc”! Giáp làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng 1946, dính đến vụ Ôn Như Hầu, Hà Nội ngày 12/7/1946, gây chấn động dư luận khi vu oan giá họa là âm mưu đảo chính để sát hại các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng…
*
Về Khả Năng Quân Sự Và Ngoại Của HCM – VNG?
1- HCM và Võ Nguyên Giáp không biết gì về quân sự, cũng chẳng có chiến lược, chiến thuật gì mới lạ, chỉ giỏi nói phét và thí quân (*)! Họ điều quân kiểu “vừa làm, vừa học”, kiểu “sáng sai, chiều sửa, càng sửa, càng sai”, làm hao tổn biết bao sinh mạng. Trong khi họ rất sợ chết, hãy để ý xem, trong các trận lớn như Điện Biên Phủ 1954 (HCM và Trường Chinh… ở Việt Bắc cách trận địa 200 km (*)), Mậu Thân 1986 thì HCM trở qua Bắc Kinh, TQ, cách trận địa tới 3.000-4.000 km (*), chỉ 1 ngày sau khi thu trước bài thơ ngày 31/12/1967 là “mật lệnh” cho bộ đội ra trận để phát trong đêm giao thừa 30/12 Tết Ta ngoài Bắc:
“Xuân này hơn hẳn mọi xuân qua, Thắng trận tin vui khắp nước nhà Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên toàn thắng ắt về ta” )…
HCM đều trốn rất kỹ!
Không có CSTQ thì hoàn toàn CSVN với đội “Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân” của Võ Nguyên Giáp lập ngày 22/12/1944 tại Cao Bằng với 34 người mà đa sốlà người Nùng được trang bị 2 súng thập (1 loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy thì không làm được gì cả.
- – -
(*) Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài “Chân Dung Và Đối Thoại” và theo Vũ Kỳ(Bí Thư riêng của HCM) trong bài “Bác Hồ Với Tết Mậu Thân Năm Ấy” đăng trên Văn Nghệ năm 1998 và sau đó trên Tuổi Trẻ…
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnvnnn0n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1
Về thí quân và dân:
Người ta thường nói “Nhất Tướng công thnàh vạn cốt khô.”, nhưng dưới tay Võ Nguyên Giáp, thí “thành tích” còn gấp trăm lần xưa nay!
Tổng cộng quân CSVN chết khoảng 1.000.000, mất tích khoảng 300.000.
- Năm 1950, theo Trần Canh, trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơnđể tiêu diệt cứ điểm Đông Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng gần 10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh Bình vào tháng 5 và nhất là trong trận Vĩnh Yên (cách Hà Nội khoảng 55 km, định về ăn Tết ở Hà Nội) vào tháng 1/1951, 2 Đại Đoàn 308 và 312 dùng chiến thuật biển người của TQ tấn công 3.000 quân Pháp chưa kể quân tiếp viện, đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân CS, dưới sự chỉ huy của ông Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của quân đội CS, khi tháo lui, là trên 6.000 người, 500 bị bắt. Số bịthương chắc chắn là gấp 2, 3 con số 6.000.
http://www.danchimviet.info/archives/73669/nhung-chien-dich-mang-ten-vo-nguyen-giap/2013/03
- Năm 1954, trận Điện Biên Phủ, phía CSVN chết 6.000 quân (gấp 3 quân Pháp), bịthương 12.000 quân.
- Năm 1968, Tổng Tấn Công và Nổi Dậy Tết Mậu Thân huy động 277.000 quân, khởi động ngày 30/1 (Giao Thừa Tết Ta) đến 28/3, đợt 2 vào tháng 5-6, đợt 3 vào tháng 8-9, đánh vào khoảng 41 thành phố và tỉnh, với thiệt hại khoảng 75.000 người, bằng cả 9 năm kháng chiến chống Pháp, tính cả năm 1968 thiệt hại là 106.109 người.
http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n
- Năm 1968, trận Khe Sanh lên cao độ thời gian 21/1-8/4 và kéo dài tới ngày 15/7, 17.000 quân CSVN thuộc Sư Đoàn 304 và Sư Đoàn 325… bao vây, bị chết ít nhất khoảng 5.550 người dưới mưa bom của B-52 HK.

- Năm 1972, chiến dịch Trị Thiên khởi sự ngày 30/3 có 6 Sư Đoàn tham gia gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341, tổng cộng 40.000 quân chính quy… Theo thông tin gần đây cho biết Sư Đoàn 308 đã mất 70% quân số; Sư Đoàn 312 đã bổ sung quân 13đợt, mỗi đợt 500 người; Sư Đoàn 320 đã mất 80% quân số. Các Sư Đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 320 với lời nguyền “Trung Đoàn 48 còn, Thành cổ Quảng Trị còn.” đã rút khỏi chiếnđịa khi chỉ còn gần 80 người.

Trong trận này, phía VNCH, 2 Trung Đoàn 2 và 56 thuộc Sư Đoàn 3 gần như tan hàng…, các Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Thiết Đoàn… đã phải rút về phía Nam. Nhưng điều đáng nói là quân CSVN đã nhẫn tâm pháo kích thẳng vào đoàn khoảng 12.000 quân và khoảng 120.000 dân di tản, khiến vài ngàn tới hàng chục ngàn người thiệt mạng. Nên đoạn đường từ thị xã Quảng Trị tới Phong Điền dài 9 km trên Quốc Lộ 1A được mệnh danh là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Sau đó Trung Tướng Ngô Quang Trưởng của VNCH đã chỉ huy TQLC và Sư Đoàn 1 chiếm lại Quảng Trị.
Tại Quảng Trị, trong thời gian chiến tranh cao độ, mỗi năm quân CS chết khoảng 10.000 người, tổng cộng toàn cuộc chiến chết khoảng 70.000 người.
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_l%E1%BB%99_Kinh_Ho%C3%A0ng
http://www.youtube.com/watch?v=qCnh-RkqYx8
- Năm 1972, mặt trận An Lộc (khoảng 100 km bắc Sài Gòn) khởi sự ngày 1/4, CSVN huy động các Sư Đoàn MTGP là 5, 7, 9, 3 Trung Đoàn Bộ Binh 24, 271, 205, TrungĐoàn Đặc Công 429, 2 Trung Đoàn Pháo Binh 28 và 42, 2 Tiểu Đoàn Thiết Giáp 20 và 21, 4 Tiểu Đoàn Phòng Không… tổng cộng khoảng 40.000 quân đánh Sư Đoàn 5, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, các Thiết Đoàn, sau đó, Sư Đoàn 21, Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 và Lữ Đoàn 1 Dù của VNCH… tăng cường giải vây. Thiệt hại phía quân CSVN là khoảng 10.000 chết, 15.000 bị thương, phía VNCH khoảng 8.000-10.000 chết và bị thương.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_An_L%E1%BB%99c
2- Đường lối ngoại giao của HCM và đảng CSVN cũng đầy thất bại vì thiếu tầm nhìn chiến lược xa và nhất là chạy theo CS, thiếu cái tâm vì dân tộc. Thật vậy, HCM cúi đầu nhận viện trợ, bị cả Liên Xô và CSTQ ép về mọi mặt, nhận chỉ thị và cố vấn CSTQ về “đánh dân” qua vụ Chấn Chỉnh Tố Chức” (Chỉnh Cán, Chỉnh Quân theo lệnh TQ phá bỏ tất cả cơ sở cũ quy tụ nhiều thành phần, lập cơ sở mới chỉchọn bận cố nông, vô học…) – Cải Cách Ruộng Đất. Bắt tay với Pháp rồi đánh Pháp, bắt tay với Mỹ rồi đánh Mỹ, bắt tay với Campuchia (Khmer Đỏ) rồi đánh Campuchia, bắt tay với Tàu rồi đánh Tàu!!! Đất nước nghèo nàn, lạc hậu mà tại sao cứ phải chiến tranh liên tục? Khiến đất nước tan hoang, dân tộc bị phân hóa, đạo đức bị suy đồi!!!
Điều này làm liên tưởng đến đạo diễn Tạ Huy Cường (tuổi độ 30, đã đạo diễn một vài phim ngắn như game show “Chắp Cánh Thương Hiệu”), bên cạnh tổng đạo diễn lão luyện Cận Đức Mậu (đã thực hiện bộ phim “Bao Thanh Thiên, Đại Tống Khai Quốc…”).Tóm lại là chẳng có thế giá gì, chỉ như một người đi học việc khi thực hiện bộphim “Lý Công Uẩn – Đường Tới Thành Thăng Long” năm 2010, đã bị dư luận lên án và cuối cùng phải bỏ.
http://vietnamaaa.numeriblog.fr/congsan/2009/07/%C4%91%E1%BB%8Dc-h%E1%BB%93i-k%C3%BD-c%E1%BB%A7a-nh%E1%BB%AFng-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-trong-cu%E1%BB%99c-i.html
http://my.opera.com/labika/forums/topic.dml?id=265603&t=1283755598&page=1#comment2883940
http://my.opera.com/PANWENFANGHUI/blog/show.dml/4151624
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_%C4%90i%E1%BB%87n_Bi%C3%AAn_Ph%E1%BB%A7
3- Năm 1945, nhân viên cơ quan tình báo OSS (tiền thân của CIA) của Hoa Kỳ đã làm việc với HCM, hiện diện bên cạnh HCM khi trình diện chính phủ liên hiệp tại Hà Nội… nên biết rõ HCM làm việc cho Liên Xô.
Chính vì vậy, năm 1945, 1946, dù Hồ Chí Minh có gửi 8 thư, có lúc nhân danh Chính Phủ Lâm Thời gửi thư cho Tổng Thống Franklin D. Roosevelt (1882-1845) và TT Harry S. Truman (1884-1972) nhiều lần yêu cầu giúp ngăn chặn Pháp trở lại VN.
Thư HCM gửi TT Truman ngày 28/2/1946.
Ngày 18/6/1949, HCM (Nguyễn Ái Quấc) gửi thư cho Ngoại Trưởng HK Robert Lansing.
Nhưng vì Hoa Kỳ biết HCM đi theo CS nên không thư nào được trả lời.
HCM từng nói với người Pháp “Các ông giết 10 người chúng tôi, chúng tôi chỉ giết 1 người các ông, nhưng rốt cuộc các ông sẽ chán nản bỏ cuộc trước.”. Tướng Giáp thi hành chiến lược đó dù quân Pháp đẩy lui hết đợt tấn công trực diện này đếnđợt khác ở Điện Biên Phủ. Trận công kích Tết 1968 là thảm họa quân sự tiêu diệt phần lớn quân CSVN.
Ngày 24/1/2013, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm (tại nhiệm năm 1991-2000, Phó Thủ Tướng năm 1997-2002, Ủy Viên Bộ Chính Trị đảng CSVN), người từng làm công việc theo dõi Hội Đàm Paris và thực hiện Hiệp Định Paris đã trả lời phỏng vấn báo điện tử Tuần Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 40 năm Hòa Đàm Paris.

Theo cựu Ngoại Trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, thách thức đặt trước dân tộc VN cả trong quá khứ và hiện tại là tư duy đối đầu, triệt tiêu lẫn nhau trong quan hệ với các nước ngoài.

Bên cạnh đó, là chính sách của nước lớn đối với nước nhỏ, mà ông gọi là “tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều cống nhiều khi vẫn lấn lướt”, tuy không chỉ rõ tên cường quốc.
“Đấy chính là khởi nguồn đã gây ra bao nghịch lý cho dân tộc Việt trong lịch sử,nay nếu ta không biết cách chế ngự nó, tương lai có nhiều điều khó dự đoán! Cơhội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm cũng là do tư duy đối đầu ấy gây ra!”.

Ông cảnh báo: “Vấn đề tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ là bài học vô cùng quan trọng. Trong ngoại giao nói riêng và vận nước nói chung, nếu ta để nhỡ thời cơ, có khi phải mất rất lâu, thời cơ mới xuất hiện trở lại, hạn chế rất lớn đến lộ trình thực hiện các mục tiêu tổng thể của cách mạng.”.
Ông cũng trích lời Nguyễn Trường Tộ, người được xem như một trong các ông tổ của ngành ngoại giao Việt Nam: “Một lần nhỡ thời cơ, hận muôn đời. Khi quay đầu nhìn lại, cơ đồ mất trăm năm.”.

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/106622/dan-toc-va-thoi-dai-voi-noi-ham-moi—.html
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/01/130124_nguyenmanhcam_hiepdinhparis.shtml
Ngạn ngữ Pháp có câu “Toute medaille a son revers.” (Tất cả tấm huân chương đều có mặt trái của nó.).
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong truyện “Ngàn Vàng Và Biển Lửa” cũng đã viết:“Vinh quang nào mà không xây trên điếm nhục.”.
Ai chỉ huy chiến dịch biên giới và Điện Biên Phủ?
Của Trần Nhu
http://vietvungvinh.com/2013/index.php?option=com_content&view=article&id=3817:ai-chi-huy-chien-dich-bien-gioi-va-dien-bien-phu&catid=49:chinh-tri-xa-hoi&Itemid=82

Sự Thật Về Võ Nguyên Giáp (bài 3 và hết): VÕ NGUYÊN GIÁP BỊ THANH TRỪNG HẠ NHỤC ÍT NHẤT 8 LẦN!!

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013), Bộ Trưởng Quốc Phòng, bị nhóm Lê Duẩn, LêĐức Thọ và Trần Quốc Hoàn cho là theo xét lại của Liên Xô và chống đảng… tìm cách hạ bệ và hạ nhục ít nhất 8 lần.

Lần Thứ 1: Năm 1967, xảy ra vụ án “Xét Lại Chống Đảng”, có tên chính thức là “Vụán Tổ chức chống đảng, chống nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài.”. Võ Nguyễn Giáp bị bắt lỗi từ việc nhận 1 lá thưcủa TĐS Liên Xô mà không báo cáo theo nội quy đảng…

Đảng CSVN chia thành 2 nhóm, 1 nhóm chấp nhận chính sách xét lại của Khrushchev, cho rằng phải xây dựng nền tảng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Trong giai đoạn 1954-1959, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ủng hộ ý kiến này, vì cơ hội thi hành Hiệp Định Genève vẫn còn. Nhóm kia ủng hộ quan điểm của TQ, muốn theo đuổi chính sách cứng rắn của Mao Trạch Đông cụ thể là tổ chức ngay chiến tranh giải phóng miền Nam. Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ trích Liên Xô và nhóm “chủ hòa” rằng: “Chúng tôi không ảo tưởng và không đánh giá thấp Mỹ, có điều chúng tôi không sợ. Nếu ai đó cứ cho rằng kiên quyết chống Mỹ là sẽ thất bại và dẫn đến chiến tranh hạt nhân, thì chỉ còn có cách đầu hàng chủ nghĩa đế quốc.”.
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_X%C3%A9t_l%E1%BA%A1i_Ch%E1%BB%91ng_%C4%90%E1%BA%A3ng

Theo ông Vũ Thư Hiên cũng là 1 người bị ghép trong vụ án xét lại chống đảng” viết trong “Trần Độ – Người Của Sự Thật” năm 2013: Cái nhóm này không phải một tổ chức, chẳng phải một đảng, thậm chí cũng chẳng phải một nhóm, nhưng được người ta bịa ra, đặt tên rất kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủnghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Kỳ thật, một vụ án ầm ĩnhư thế, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, trong Đảng có báo cáo, rất nhiều người biết, mà anh [Trần Độ] lại không biết. Mà không phải mình anh không biết. Hơn chục năm sau (1988), khi tờ “Truyền Thống Kháng Chiến” của“Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” ra đời ở Sài Gòn, tướng Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai (tên mới của đường Pasteur) đểbàn chuyện tờ báo, tôi mới hiểu – thậm chí cả Tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ này…

Tướng Trà sau khi tìm hiểu vấn đề đã phải thốt lên:
- Một lũ chó má! Không thể ngờ.
https://danluan.org/tin-tuc/20130812/vu-thu-hien-tran-do-nguoi-cua-su-that-vai-ky-niem-vat-voi-tran-do

Về “Chủ Nghĩa Xét Lại” và “Đổi Mới”

Tháng 9/1953, Nikita Khrushchev (1894-1971) được bầu làm Bí Thư Thứ Nhất Ban Chấp Hành Trung Ương đảng Cộng Sản Liên Xô kiêm Thủ Tướng. Năm 1956, tại Đại Hội Lần Thứ 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo phê phán nặng nề sự tàn ác vô song và sự sùng bái cá nhân của I. V. Stalin (1879-1953). Vì thấy đối đầu với Tư Bản quá mạo hiểm và không dễ gì thắng, Khrushchev chủ trương thay vì tận diệt Tư Bản thì chung sống hòa bình. Các đoàn đại biểu CS các nước khi đi dự thì đều tàn thành, nhưng khi về nước rồi thì một số ngả theo lời kêu gọi Mao Trạch Đông (1893-1976), TQ, chống lại và gọi đó là “Chủ Nghĩa Xét Lại”. Thế giới CS chính thức chia đôi vì ý thức hệ từ đó.

Đây là một biến cố rất lớn, ảnh hưởng tới đường lối của đảng CSVN vì khi đó tại VN đang sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh và diễn ra Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, giết người rất gay gắt. Nhờ vậy mà vụ giết người dần dần dừng lại, nhận sai lầm…

Nhưng sau khi Lưu Thiếu Kỳ qua VN thì CSVN ngả hẳn theo TQ. Tại Hội Nghị TrungƯơng lần thứ IX cuối năm 1963, nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã lên án“Chủ Nghĩa Xét Lại”, đứng về phía TQ và ra Nghị Quyết 9 (trong bí mật) chủtrương đẩy mạnh việc tiến chiếm miền Nam bằng vũ lực. Những bất đồng trong nội bộ đảng nổ ra từ năm 1963-64. Nhưng họ cũng đã từ chối đề nghị của Phó Thủ TướngĐặng Tiểu Bình sẽ giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa nếu CSVN chấm dứt quan hệ với Liên Xô.

Năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”đã làm cho khoảng 40 người đang học và đang công tác ở Liên Xô phải xin “tị nạn”,trong đó có nhiều người gần gũi với Giáp như Phó Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính Ủy Sư Đoàn 308, Phó Chính Ủy Quân Khu III, Đại Tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn…và tiến tới đợt bắt giữ nhiều Tướng, Ủy Viên Trung Ương thuộc nhóm thân Liên Xô vào năm 1967. Giáp không có 1 hành động nào bênh vực những đồng chí, đồng đội.
Năm 1981, ông Hoàng Minh Chính làm đơn kiện vụ bắt giam này và đòi giải oan cho những người bị bắt, kết quả là ông bị bắt giam 6 năm và 3 năm quản chế.
- Lê Hồng Hà, cựu Đại Tá, nguyên Chánh Văn Phòng Bộ Công An thời Bộ Trưởng Trần Quốc Hoàn:
Tôi là một thanh niên Việt Nam tham gia Mặt Trận Việt Minh, tham gia Tổng Khởi Nghĩa năm 1945. Rồi là Chánh Văn Phòng Bộ Công An. Tôi làm việc và tiếp xúc với nhiều cơ quan khác nhau, nên kiến thức được mở rộng. Vụ án quan trọng xét lại chống đảng [năm 1967] có tới 70 Ủy Viên Trung Ương bị tố cáo, bắt giam và đối xửvới gia đình người ta không ra sao chỉ vì khác quan điểm với Bộ Chính Trị.

Tôi lên tiếng bênh vực những người này nên Lê Đức Anh (chột mắt) và Lê Đức Thọtìm cách trị tội, khai trừ tôi ra khỏi đảng. Trình độ văn hóa của những người lãnh đạo hạn chế, minh oan cho người khác mà bị khai trừ, cái đảng này khôngđáng cho mình vào làm cái quái gì! Đảng không đáng cho mình sùng bái. Sống là con người, vì nhân dân thì ra khỏi đảng suy nghĩ hay hơn, độc lập hơn. Đảng CSVN hôm nay đang ở trong một cuộc khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt như kinh tế,xã hội, chính trị, về tư tưởng, về tổ chức. VN đang đứng trước nguy cơ Bắc thuộc.

Không thể tin được vào một người lãnh đạo nào. Đời sống chính trị đang diễn ra hai vấn đề: Thứ nhất tìm một đường hướng tốt, đứng đắn cho dân tộc. Thứ hai phải chấm dứt thái độ bạc nhược, khuất phục TQ. Phải hiên ngang bảo vệ tổ quốc. Tầng lớp tham nhũng là những người lãnh đạo trong đảng.
Trả lời BBC về việc được cho là sai lầm của đảng trong Vụ Án Xét Lại Chống Đảng, GS Nguyễn Trọng Phúc, Học Viện Chính Trị – Hành Chính Quốc Gia HCM cho biết:“Năm 1993 và 1994, Bộ Chính Trị đảng CSVN vẫn kết luận sai phạm của những người trong nhóm đó là hoàn toàn đúng sự thật và phải xử lý như vậy thôi.”.

Ngày 18/7/1995, trong bức thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN khóa VII, ông Hà viết: “Có thể nói, sau những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải Cách Ruộng Đất và Chỉnh Đốn Tổ Chức (1956), thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử đảng ta, xét về quy mô, tính chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụán oan sai lớn nhất trong hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam của thế kỷXX.”.
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_X%C3%A9t_l%E1%BA%A1i_Ch%E1%BB%91ng_%C4%90%E1%BA%A3ng

Lần Thứ 2: Năm 1976, ngay sau khi cưỡng chiếm miền Nam, vai trò của Đại Tướng Văn Tiến Dũng càng nổi bật trong chiến thắng thì vai trò của Giáp yếu hẳn và không lâu sau đó thì mất luôn chức Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Điều trớ trêu là vẫn làm Bộ Trưởng Quốc Phòng mà không có quyền Tổng Tư Lệnh Quân Đội! Giáp chỉ còn hư danh, chờ bị hạ bệ tiếp!

Lần Thứ 3: Ngày 7/2/1980, Võ Nguyễn Giáp bị thôi chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, tuy vẫn tiếp tục là Ủy Viên Bộ Chính Trị đến năm 1982 và Phó Thủ tướng phụtrách Khoa Học – Kỹ Thuật. Đại Tướng Văn Tiến Dũng lên thay. Giáp không còn cầm quân nữa, coi như bị tước không còn manh giáp!

Có lúc nhóm Lê Duẩn còn định quản chế Giáp ở một nơi biệt lập (là đảo Tùng Châu ?). Từ khoảng năm 1965, 67, hàng 50 năm sau cùng của đời ông, Giáp thường chỉra mặt mang tính hình thức, không có quyền hành gì. Vụ Tổng Công Kích Mậu Thân năm 1968 (Tổ 5 người giúp Trung Ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ, Giáp chỉ có 1 phiếu. Chủ chiến là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh, nhưng sau tất cả đồng ýđánh, lập “Kế Hoạch 67-68” mới chủ yếu đánh là vào thành phố. Trước khi lên đường vào Nam, bất ngờ Thanh chết sáng ngày 6/7/1967 vì “nhồi máu cơ tim”. Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Thanh, được đưa đi Hungary dưỡng bệnh cũng là cách cánh chủchiến tước quyền Giáp. Sau triển khai thành tổng công kích – tổng khởi nghĩa và gọi là “Chiến Dịch Quang Trung”…) hay Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975, có mà kể như không có Giáp, còn bị nhóm cực đoan giáo điều Lê Duẩn cho là hèn nhát.
*
Giáp bị còn siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới là Đỗ Mười – Lê Đức Anh, họ đưa ra bản cáo trạng gồm 8 tội danh:
1. Giáp từng là con nuôi của Chánh Sở Mật Thám Đông Dương, Louis Marty (*).
2. Giáp cầm đầu vụ án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958.
3. Giáp bán bí mật quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov.
4. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch.
5. Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹtrở lại thì không có đủ quân chống đỡ.
6. Mậu Thân 1968, Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn.
7. Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B [chưa bao giờ dám đặt chân vào miền Nam trước 197].
8. Giáp đã có vợ, nhưng lại ăn nằm với 1 phụ nữ đã có chồng. Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy đàn piano.
Đỗ Mười kết luận phải khai trừ Giáp ra khỏi đảng CSVN, nhưng theo Lê Đức Anh thì chỉ gạt ông Giáp ra khỏi ghế “Ủy Viên Trung Ương” mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn còn bố thí cho ông.

 (*) Đặng Chí Hùng sau khi tra cứu nhiều tài liệu đã viết bài “Những Sự Thật Cần Phải Biết (phần 19) – Sự Thật Về Võ Nguyên Giáp”, cho hay ngày nay đã có tài liệu sáng tỏ ông ta từng là con nuôi của mật thám Pháp. Có ít nhất 3 tài liệu trong số vô vàn tài liệu:
Thứ nhất, theo ông Trần Quỳnh – 1 chức sắc lãnh đạo có thẩm quyền cộng sản, có uy tín cá nhân – viết lại về việc Trường Chinh đến thăm ông Đặng Thái Mai (tên gốc là Đặng Thai Mai) như sau: “Thời kỳ trước Cách mạng tháng tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng Thái Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đăng Thái Mai bị bất ngờ, Trường Chinh lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thưlà chánh mật thám, chữ ký là Mạc-Ti và câu đầu: “Các con thân ái Mai và Giáp”(Mes chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên nhìn thấy Trường Chinh vội vàng nhét thư vào túi áo… Giáp là con người xảo trá – khi tôi từ miền Nam, khi nói chuyện riêng, Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác, Giáp hay nịnh Bác”. (Hồi ký Trần Quỳnh: Những kỷ niệm về Lê Duẩn, 30-7-1986).

Thứ hai, ông Hoàng Văn Chí trong cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” viết đầy đủ và rõ ràng hơn như sau: “Mai [Đặng Thái Mai] và Giáp đều là “con nuôi” của Louis Marty, giám đốc phòng chính trị của Phủ Toàn Quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bịtù đầy hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tàu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tỉnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau như “anh em kết nghĩa”, nhưng sau khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20 tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là chú cháu”.

Thứ ba, cuốn sách của Cecil B. Currey, nhan đề: “Victory At Any Cost: The Genius Of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyên Giáp” [Chiến Thắng Bằng Mọi Giá] ghi lại đầyđủ chi tiết và trung thực hơn cả. Xin được tóm tắt như sau: “Vào năm 1930, mật thám Pháp đã bắt 1 số người tình nghi hoạt động chống Pháp cùng với 1 số người khác trong đó có anh của Võ Nguyên Giáp là Võ Thuần Nho, Đặng Thái Mai, 1 Giáo Sư văn chương tại Quốc Học và 1 nữ sinh 15 tuổi tên Nguyễn Thị Quang Thái, nữsinh Đồng Khánh. Người mà sau này là vợ của Võ Nguyên Giáp… Đặng Thái Mai bịkết án 4 năm tù, Nguyễn Thị Quang Thái, 2 năm tù. Riêng Võ Nguyên Giáp vì chứng cớ hoạt động không rõ ràng, nhưng quan tòa cũng xin xử phạt 2 năm tù khổ sai… Năm 1933, Đặng Thái Mai ra Hà Nội nhận dạy học ở trường Thăng Long, VNG ra Bắc theo… Với 1 án tù chính trị như thế, con đường học của Võ Nguyên Giáp là không thể có được nếu không có sự giúp đỡ của Louis Marty. Trong việc tiếp xúc giữa Marty và VNG, Marty đã khuyên Giáp quay trở lại việc học và chuẩn bị cho việc thi tú tài 1 và 2. Chắc hẳn Marty đã ngầm giúp đỡ để Giáp có thể vào học ởtrường Albert Sarraut.”.
http://danlambaovn.blogspot.jp/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-19-su.html#.Uiku8kaCjmQ

Lần Thứ 4: Năm 1982, Giáp mất chức Ủy Viên Bộ Chính Trị.


Lần Thứ 5: Năm 1983, Lê Đức Thọ (học trò cũ của Giáp) đã hạ nhục Giáp một cách không thương tiếc khi cho Giáp làm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh ĐẻCó Kế Hoạch lúc ủy ban này được thành lập. Giáp vẫn không có 1 hành động gì dù nhỏ nhất như từ chức, về hưu để giữ khí tiết của 1 người làm Tướng, danh dựquân đội.

“Võ” Đại Tướng chỉ còn có cái “vỏ” vì vậy mới có thơ:
Ngày xưa Đại Tướng cầm quân, Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!

Dân Bắc đàm tiếu rằng con đường “công danh” của Tướng Giáp đầy gian nan vất vả,ông đã “hành quân” qua 1 chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò (1 trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc, Hà Nội, dành cho những phụ nữ thuộc giới bình dân, chuyên đỡ đẻ, nạo phá thai…).
Lần Thứ 6: Năm 1991, Giáp mất chức Ủy Viên Trung Ương và Phó Thủ Tướng, chính thức nghỉ hưu.
Dù chỉ tồn tại với tính cách hư vị, sau khi Giáp mất chức Bộ Trưởng Quốc Phòng năm 1980, mất chức Ủy Viên Bộ Chính Trị năm 1982 và mất luôn chức Ủy Viên TrungƯơng năm 1991, lần này Giáp thực sự mất hết quyền hành.

Giáp vẫn được nhiều lãnh đạo đảng, cán bộ cao cấp chiếu cố đếm thăm, vẫn đưa ra nhiều ý kiến như:
- Kiểm điểm vụ PMU18 và báo cáo Đại Hội X (2006).
- Không xây trụ sở Quốc Hội mới trong khu Ba Đình lịch sử (khu di tích 18 Hoàng Diệu) (2007).
- Không sáp nhập tỉnh nông nghiệp Hà Đông (6-9 tỉnh chung quanh…) vào Hà Nội.
- Đưa lên báo bài “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của nước nhà”, nêu lên thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề “cơ bản và cấp bách” nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của VN hiện nay… (2007)
- Không nên tiến hành khai thác bôxit Tây Nguyên (2008-2009, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu TT CSVN Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này, vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường, nhưng không được trả lời).
- Yêu cầu giải quyết “vụ án siêu nghiêm trọng” liên quan đến Tổng Cục 2 với Năm Châu và Sáu Xứ vu khống mình (2004)… Nhưng đều không được quan tâm.
Có người cho rằng Giáp đã 80 tuổi, về hưu là vừa, nhưng Giáp là người đam mê quyền lực, danh vọng suốt đời, thì việc tước hết mọi chức vụ là điều cay đắng đối với Giáp, Giáp sẽ sống thế nào với 33 năm còn lại!?

Ngày 11/10/2013, nhân cái chết của Giáp, cựu Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nói với đài VOA: “Bây giờ thì người ta tổ chức tang lễ của Đại Tướng rất là long trọng nhưng mà khi Đại Tướng còn đang sống và tỉnh táo, Đại Tướng đề nghị không phá Hội Trường Ba Đình lịch sử, Đại Tướng đề nghị không khai thác bauxite Tây Nguyên, và không sáp nhập cả tỉnh Hà Đông nông nghiệp vào thủ đô Hà Nội hiện đại nhưng mà đều không được chấp nhận và không được phản hồi. Tôi thấy đấy là những mâu thuẫn với nhau.”.
Truyền thông nhà nước Việt Nam đã loan tải rất nhiều bài viết ca ngợi công lao của Tướng Giáp, nhưng người ta không thấy họ đề cập gì tới những trăn trở lúc cuối đời của vị danh Tướng này như ông Vĩnh đề cập…

Ông nói: “Theo tôi thì các vị [lãnh đạo] hiện nay không học hỏi Đại Tướng Võ Nguyên Giáp bởi vì Trung Quốc liên tục xâm chiếm biển Đông và đòi gần hết biểnĐông là của họ một cách vô lý mà nhà nước chúng tôi vẫn cứ nói rằng là [quan hệ]hữu nghị, tôn trọng 16 chữ vàng với 4 tốt”.
http://www.voatiengviet.com/content/su-mau-thuan-trong-cach-doi-xu-cua-vietnam-doi-voi-dai-tuong-vo-nguyen-giap/1766875.html

Lần Thứ 7: Năm 1991, nổ ra vụ án “Năm Châu – Sáu Sứ” thuộc Tổng Cục 2… vu cho Giáp âm mưu đảo chính để lên làm Tổng Bí Thư và Trần Văn Trà lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng… (Hồ Văn Châu hay Năm Châu, 1 sĩ quan về hưu trong hội Cựu Chiến Sĩ, và Nguyễn Thị Sứ, hay Sáu Sứ, trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc. Một tài liệu ghi tên 12 người là điệp viên có đóng dấu của Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương HK CIA, khiến 1 số người bị bắt như Nguyễn Văn Thắng (Trung Tướng Công An?) ở hàng thứ7 bị giam ở số 4 Bạch Đằng…, nhưng thực ra là tài liệu giả in trên giấy Bãi Bằng chỉ làm tại VN sau năm 1975.)

Theo Chương 15 “Tướng Giáp”, tập 2 bộ “Bên Thắng Cuộc” của nhà báo CS Huy Đức:
Trước Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (28/6-1/7/1996), Đại Tướng Võ Nguyên Giáp được Trung Ương chỉ định về ứng cử Đại Biểu đi dự Đại Hội tại Đảng Bộ NghệTĩnh. Cuối tháng 4/1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn Đại Biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị Tướng già cơm nước xong, Bí Thư Tỉnh Ủy Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí Thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, Tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.

Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh – Hà Nội tuy chỉ hơn 300 km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn Đại Biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội NghịTrung Ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ“Năm Châu – Sáu Sứ”.

Tại Hội Nghị Trung Ương 12, Khoá VI (1986-1996), ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ Chức, thay mặt Bộ Chính Trị báo cáo với Ban Chấp Hành Trung Ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đềbố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.

Thứ Trưởng Bộ Nội Vụ phụ trách an ninh, Trung Tướng Võ Viết Thanh [sinh năm 1943, Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN, Chủ Tich Ủy Ban Nhân Dân thành phố HCM, Thứ Trưởng Bộ Nội Vụ (Công An hiện nay), năm 1988 ông được phong cấp hàm Trung Tướng], nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại Tướng Võ Nguyên Giáp lên làm Chủ Tịch Nước sau đó thay ông Linh làm Tổng Bí Thư; đưa Trần Văn Trà lên làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Thời gian trước Hội Nghị Trung Ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà Khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép.”.

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B5_Vi%E1%BA%BFt_Thanh

Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Ủy Viên Bộ Chính Trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một Đại Tướng mà xứng đáng là một Đại Nguyên Soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sĩ mà còn đặt danh dựcủa tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên.”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội Nghị 12 và 13 của Ban Chấp Hành Trung Ương, nhiều vị Tướng trong Quân Đội hết sức bức xúc,đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị Tướngđã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp.”.

Gần tới ngày Đại Hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ Trưởng Nội Vụ Mai Chí Thọtriệu tập một cuộc họp kín gồm có các Thứ Trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công An làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà đểxử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này.”. Cả bốn vị Thứ Trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói:“Đề nghị Bộ Trưởng trình bày lại với Tổng Bí Thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Uỷ Ban Kiểm Tra Trung Ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội.”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí Thư.”.

Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc Phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê [Đại Tướng, Ủy Viên Bộ Chính Trị, hình bên]. Cá nhân tôi với Cục Trưởng Quân Báo Tư Văn và Cục Phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II.”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm.”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành.”.

Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấnđề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu Tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của Tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạođức và pháp luật.’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14/5/1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn ThịSứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chịkhông được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết.’.Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với TưVăn, Vũ Chính.’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết.” (Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên Giang, thường trú tại quận 5, TP HCM. Từng tham gia lực lượng Thanh Niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn ở lại miền Nam.).

Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâmđề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị Tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thưký của Tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu Chiến Binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp.

Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụpảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch.”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại Hội VII do Tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trởthành cơ sở để Trưởng Ban Tổ Chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội Nghị TrungƯơng 12 về Tướng Giáp.”.

Theo Đại Tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn Phòng Tướng Giáp, từ Hội Nghị TrungƯơng 12 về nhà nghỉ trưa, Tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ởNam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, Tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy Tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”.Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng.”.

Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15/5/1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục Trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17/5/1991, Tướng Lê Đức Anh viết 1 bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính Trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc Hội khoá IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, Tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác Sĩ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói:“Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉcòn 1 triệu. May mà cấp cứu kịp.”.

Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghịBộ Trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh.’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn Phòng Trung Ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng Bí Thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn Phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trảvăn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn Phòng Trung Ương. Sau đó, Trung Ương không có một lời nào nói lại với Tướng Giáp, còn Tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lạiở số 8 Chu Văn An”.

Theo ông Võ Viết Thanh: “TBT Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội Nghị Trung Ương và ngay cả các Ủy Viên BộChính Trị cũng không mấy ai biết.”. Thái độ của Tổng Bí Thư như một tín hiệu đểngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.

Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23/6/1991, khi Đại Biểu đã được triệu tập về Hà Nội:“Trước phiên họp cuối cùng của Hội Nghị Trù Bị, Hồng Hà, Chánh Văn Phòng TrungƯơng đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc củaĐoàn Chủ Tịch Đại Hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, báo đồng chí 2 nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính Trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí 2 việc: 1, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc Phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; 2, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung Ương khoá VII”.

Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khoá, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại Hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận.”. Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại Hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ 2 là ra lệnh bắt oan Tướng Trà và Tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi.”(Năm 1983, sau gần 7 năm lặn lội với lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được Võ Văn Kiệt yêu cầu về công tác trong ngành Công An. Trong năm đó, được bổ nhiệm làm Giám Đốc Công An Thành Phố. Năm 1986, tại Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI, ông chính thức trở thành Ủy Viên TrungƯơng khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ là Ủy Viên dự khuyết. Trung Tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân Đội, bị buộc phải ra đi ở một thờiđiểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được tướng Giáp ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu – Sáu Sứ” còn chặn được con đường của ông Thanh, người mà ông Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ khi ông trở thành ThủTướng.)…

Theo Giáo Sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mớiđến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn vềvấn đề của Tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ NgọcĐại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm.”.

Tại Đại Hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính Trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “LêĐức Thọ phải đưa cùng lúc 5 người ra khỏi Bộ Chính Trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của tướng Giáp.”.
Năm 1983, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức Chủ Tịch Uỷ Ban Quốc Gia Về Sinh Đẻ Có Kế Hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính Trị giữ chức Phó ThủTướng thường trực. Dân gian truyền nhau:

“Nhà thơ làm kinh tế Thống chế đi đặt vòng”.

Năm 1984, nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 Năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến tháng 5/1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị Tư Lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên Tướng Pháp này…
Từ sau khi Tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc Phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “Đại Tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần nhưrất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp Tướng sang trọng màu trắng…

Mãi tới năm 1994, trong lễ “Kỷ Niệm 40 Năm Chiến Thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6/5/1994: “Xin chào mừng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là Tổng Tư Lệnh Chiến Dịch Điện Biên Phủ…”.

http://viteuu.blogspot.jp/2013/01/ben-thang-cuoc-quyen-ii-quyen-binh_5937.html#more

Lần Thứ 8: Ngày 14/8/2002, khi Giáp cùng nhiều người khác gửi vòng hoa đến viếng tang Trung Tướng Trần Độ thì hàng chữ: “Vô cùng thương tiếc Trung Tướng Trần Độ.Đại Tướng Võ Nguyên Giáp” cũng bị chận lại, để bỏ hàng chữ “Vô cùng thương tiếc”,và các quân hàm “Trung Tướng”, “Đại Tướng”. Thư ký của Giáp là Đại Tá Nguyễn Văn Huyên (hình bên), phản đối, 2 bên đôi co lằng nhằng và đều phải xin ý kiến cấp trên của mình. Cuối cùng là: “Thương tiếc Trung Tướng Trần Độ. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp” (bỏ chữ “Vô cùng”) và khi Ban Tang Lễ đọc tên người viếng thì chỉcụt lủn là: “Vòng hoa của ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ”.

Ông Kim Sơn, một lão thành cách mạng, tham gia từ hồi quân giải phóng, đã tiến lên phản đối Ban Tang Lễ: Quân hàm của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là do Bác Hồphong. Ai dám tự ý tước bỏ? Sao các anh làm ăn bậy bạ thế? Vòng hoa vẫn đề chữ Đại Tướng, mà các anh đọc sai đi là nghĩa sao?

Vậy thì rõ ràng đảng CSVN có coi Giáp ra gì đâu!?
http://diendanctm.blogspot.jp/2013/08/cai-gi-xay-ra-trong-am-tang-tuong-tran.html
Đùng một cái Võ Nguyễn Giáp theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28/5/1948, được Hồ Chí Minh đưa lên làm “Đại Tướng”, đùng một cái mất hết! Cho thấy thực ra Giáp cũng chẳng có tài cán và thế lực gì đặc biệt, đôi khi còn bị đó đây chê là Tướng hèn vì rất ít khi đi tham quan mặt trận… Phần lớn thành tích đều là tuyên truyền và chiến công đều bằng sự hy sinh xương máu của hàng trăm ngàn bộ đội và dân chúng.

Theo bài “Đại Tướng Võ Nguyên Giáp Và 4 Điều Tiết Lộ” của nhà văn Trần Khải Thanh Thủy viết là Võ Nguyên Giáp kể chuyện nhân sinh nhật thứ 84 năm 1994 tại nhà riêng ở số 25 Hoàng Diệu, Hà Nội, trước đoàn người đến chúc mừng, cho thấy Giáp bất đồng sâu sắc và tiếng nói của Giáp không có trọng lượng trước chủtrương sắt máu của Lê Duẩn.

Phải chăng những mâu thuẫn này và “uy tín” của Giáp mới là cái gốc của vấn đềGiáp bị triệt hạ, chuyện kết án “theo Liên Xô xét lại” chỉ là cái cớ…

Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại Tướng, Bộ Trưởng Quốc Phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp Tiểu Đoàn. Sự mặc cảm trước “uy danh” của Giáp có thể được tích tụ nơi 2 người đã cất nhắc Anh: Lê Duẩn và đặc biệt là Lê Đức Thọ.
http://www.motgoctroi.com/Tailieu/VVGiap_4dieu.htm

Theo nhà báo Huy Đức viết trong bộ “Bên Thắng Cuộc” cuốn Quyền Bính, phần 2, Võ Nguyên Giáp đã ít nhất 2 lần thoát khỏi những cuộc thanh trừng do chính các đồng chí của ông gây ra.
1- Đó là đợt bắt bớ hàng loạt các Tướng lĩnh ủng hộ Tướng Giáp ngay trước và sau khi nổ súng Tổng Công Kích Mậu Thân 1968 (Đại Tá Lê Trọng Nghĩa Cục Trưởng Quân Báo, Lê Minh Nghĩa Phó Văn Phòng Quân Ủy, kiêm Chánh Văn Phòng Bộ Tổng Tham Mưu, Đỗ Đức Kiên, Cục Trưởng Cục Tác Chiến…, sau đó Trung Tướng Nguyễn Văn Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng và Ủy Viên Thường Trực Tổng Quân Ủy, bị bắt giữ vàđã mất hết các chức vụ…) tổng cộng khoảng 30 người, do Lê Đức Thọ ra tay khi không có mặt Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ở VN.
2- Vụ Năm Châu – Sáu Sứ Tổng Cục 2 vu cáo Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng Tướng Trần Văn Trà năm 1991 do Đại Tướng Lê Đức Anh dựng lên với sự bao che của Đại Tướng Đoàn Khuê.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/10/131005_tuong_giap_hai_lan_thoat_nan.shtml

 Kết luận gì về Võ Nguyên Giáp? Mỗi người có kết luận riêng nhưng dù nhận định thế nào thì với cuộc đời “lên voi xuống chó” của Giáp, thấy rõ Giáp thuộc loạiđặt đâu ngồi đó, không phản ứng mà nếu khen thì người ta cho là “nhẫn” hay chê thì cho là “nhục”.

Ngoài những coi thường của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, tố giác của Đỗ Mười và Lê Đức Anh… Giáp có con gái với vợ đầu Nguyễn Thị Quang Thái là Võ Hồng Anh (1939-2009) du học Liên Xô nhiều lần (1954-1965, 1966-1969 và 1979-1983, từ khi còn bé, mới đầu vào học trường Thiếu Nhi cho tới tốt nghiệp Tiến Sĩ Toán-Lý), Lê Đức Thọ từng cho an ninh theo dõi sát, quản chế Võ Hồng Anh để áp lực với Giáp. Chắc chắn Giáp bị hạ bệ không đơn thuần là chuyện ganh tỵ uy danh, còn có gì bí ẩn trong cuộc đời Giáp bị nhóm chống đối nắm được khiến Giáp phải cắn răng, ôm nhục chịu trận như vậy!?

Bao người đàn em, ái mộ Giáp đâu mà để Giáp bị hạ nhục? Vấn đề là chính Giáp không mạnh mẽ phản ứng thì làm sao người khác phản ứng mạnh mẽ được.
Trong hàng mấy chục năm cuối đời, Giáp có lên tiếng về 1 số vấn đề đất nước, nhưng không được đảng CSVN tiếp thu và xét ra còn quá ít. Giáp hầu như yên lặng trước những vấn đề lớn của đất nước đều là hệ quả từ chế độ do Giáp tích cực góp phần tạo nên như:
1- Cải Cách Ruộng Đất sát hại 172. 000 người, không ngăn cản chỉ đóng vai xin lỗi cứu đảng.
2- Ngày chết của HCM bị sửa, di chúc bị cắt dấu.
3- Hiến Pháp phi dân chủ, nhiều điều không được thực thi như giáo dục tiểu học miễn phí, quyền tự do ngôn luận, hội họp, biểu tình…
4- Cán bộ từ trên xuống dưới tham ô, hà hiếp nhân dân.
5- Hàng triệu dân oan bị cướp đất.
6- Kinh tế yếu kém, nợ nần chồng chất.
7- Đất nước tụt hậu, đạo đức băng họai.
8- Đấu tranh dân chủ trên toàn quốc bị đàn áp.
9- Vội vàng theo đuổi năng lượng nguyện tử / hạt nhân.
10- Đảng CSVN nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc.
11- Trung Quốc lấn át, đánh bắn ngư dân.
12- Biều tình chống Trung Quốc bị trù dập…
*
Trước những sự kiện sinh tử ấy, Giáp không chọn đấu tranh mà chọn yên thân (chốngđối như cha đẻ Hồng Quân Liên Xô Trosky ở Liên Xô hay Bộ Trưởng Quốc Phòng BànhĐức Hoài ở Trung Quốc sẽ bị triệt hạ thẳng tay) để có thể an hưởng hào quang ảođem lại như chúng ta thấy qua quốc tang Giáp.
Nếu nói là Võ Nguyên Giáp có công to thì chế độ mà ông dựng lên đem lại rất nhiều tệ hại còn to hơn công ấy! Nếu HCM và VNG coi Chủ Nghĩa CS là phương tiện để đạt mục đích thì họ đã không biết phải làm gì khác hơn là khi mục đích đã đạt và cốbám víu vào phương tiện thực ra là con dao 2 lưỡi đang tác hại!

Kết quả, số phận của Giáp là số phận của 1 người làm Tướng đầy vinh nhục!

Khi Giáp chết, đảng và nhà cầm quyền CSVN tổ chức quốc tang 2 ngày 12-13/10/2013, 1 số người và giới truyền thông bồi bút thi nhau xưng tụng Giáp,đọc và nghe mà thêm cay đắng cho Giáp. Nếu Giáp tài, Giáp giỏi, Giáp đạo đức, Giáp nhân cách lớn, Giáp gần quân, Giáp gần dân, Giáp bình dị… như vậy, không hề nói tới lỗi lầm nào của Giáp thì tại sao lại bị chính đảng CSVN trù dập và hạbệ tới 8 lần!?

Và cái sai lầm lớn nhất của Giáp là theo chủ nghĩa CS, đưa đất nước vào chiến tranh, lầm than, tụt hậu, mất đạo đức, phân hóa… Giáp với vai trò Bộ Trưởng Nội Vũ đã ký các nghị định vào tháng 9/1945 chống lại cái gọi là các tổ chức “phản động” thực chất là các đảng phái Quốc Gia, nhẫn tâm vu khống là có âm mưu đảo chính để đàn áp khủng khiếp Việt Nam Quốc Dân Đảng (qua vụ phố Ôn Như Hầu năm 1946, nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội), tàn sát Việt Cách và rất nhiều người quốc gia yêu nước khác…
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_ph%E1%BB%91_%C3%94n_Nh%C6%B0_H%E1%BA%A7u

Sự Thật Về Võ Nguyên Giáp
2 bài về Võ Nguyên Giáp của Đỗ Thông Minh http://www.mediafire.com/view/7puaht0twze4a6s/S%E1%BB%B1_th%E1%BA%ADt_v%E1%BB%81_V%C3%B5_Nguy%C3%AAn_Gi%C3%A1p.doc
Đảng ‘nương nhờ hào quang Tướng Giáp’ http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2013/10/131013_gengiap_wrapup.shtml
HẾT

Monday, October 21, 2013

Tấm gương Võ Nguyên Giáp

Một nhà báo ngoại quốc, ông Jonathan Head, đến Việt Nam quan sát và tường thuật đám tang ông Võ Nguyên Giáp cho đài BBC, nhận xét rằng trong số những người đến bày tỏ lòng thương tiếc và ngưỡng mộ ông, ngoài các cựu chiến binh lớn tuổi còn có hàng ngàn thanh niên, nhiều người chưa ra đời khi ông Giáp bị gạt ra khỏi Bộ Chính Trị đảng cộng sản năm 1982.
Jonathan Head viết: "... những hàng dài thanh niên với nét mặt buồn bã chẳng kém vẻ mặt của các cựu chiến binh.” Nhưng Head cũng nhận xét, “Những khẩu hiệu Marxist cũ rích vẫn được đảng Cộng sản Việt Nam rao giảng nhưng không còn gì hấp dẫn với thế hệ trẻ, vốn đã biết sống theo khuynh hướng xã hội tiêu dùng; và biết những cơ hội mà kinh tế thị trường mang lại cho họ.” Trong khi đó, thì “Tướng Giáp đã luôn trung thành với các khẩu hiệu cũ rích đó... Ông không bao giờ đi chệch đường lối chính sách hay nói về bất cứ nghi ngờ hay mối lo khủng hoảng nào của chế độ... Thay vào đó, ông vẫn hùng hồn nói về quy luật tất yếu lịch sử là chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng kinh tế tư bản.”

Võ Nguyên Giáp luôn luôn đóng vai trò một đảng viên cộng sản gương mẫu, tức là lúc nào cũng tin tưởng ở lý thuyết cộng sản và chấp nhận tất cả các quyết định của đảng, như trong mục này đã viết. Nhưng giải thích như vậy cũng không đầy đủ cho câu hỏi, như Huỳnh Thục Vy mới viết, tại sao ông Giáp “lặng thinh một cách vô cảm” trong nhiều trường hợp đáng lẽ phải lên tiếng.

Ông Giáp tuân theo lệnh đảng trước mọi quyết định đối với cá nhân. Vì vậy, ông cắn răng cam chịu khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ tước hết quyền hành. Ông Giáp vẫn giữ chức tổng tư lệnh, bí thư Quân Ủy Trung Ương; còn làm phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam cho đến năm 1975 nhưng nhiều người chỉ có Lê Duẩn chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Ông mất chức bí thư Quân Ủy năm 1977, mất chức bộ trưởng Quốc Phòng năm 1980, rồi năm 1982 bị loại khỏi Bộ Chính Trị.

Sau đó, Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn công khai làm nhục ông khi phong Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Ủy Ban Dân Số và Sinh Ðẻ Có Kế Hoạch, tức chương trình hạn chế sinh sản, còn gọi là cai đẻ. Với chức vụ tổng chỉ huy chiến dịch cai đẻ của ông, dân miền Bắc đã đặt câu ca dao chế nhạo: “Ngày xưa đại tướng cầm quân - Ngày nay đại tướng cầm quần chị em - Ngày xưa đại tướng công đồn, vân vân.”

Không ai nghe ông Giáp than phiền lời nào khi bị nhóm Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ hạ nhục trước mặt cả nước như thế. Nhưng trong chín năm làm phó thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, từ 1982 đến 1991, cũng không ai thấy nước Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể nào về khoa học, kỹ thuật. Ngay cả việc sinh đẻ có kế hoạch cũng không ra gì; bằng cớ là dân số Việt Nam đã tăng vọt từ đó tới nay.

Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ là những người đồng thời với Võ Nguyên Giáp, dù địa vị thấp hơn nhiều. Ông chịu thua họ, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng sau đó, cả đám thuộc hạ hàng thứ ba, hạng tư, như Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười lại hạ nhục ông Giáp thêm một lần nữa. Họ phổ biến các tài liệu tố cáo ông từng là con nuôi của chánh sở mật thám Ðông Dương, Louis Marty; từng bán bí mật quân sự cho Ðại sứ Liên Xô Serbakov; còn trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ thì Giáp hèn nhát, sợ chết, quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài (Gần đây, ông Bùi Tín xác nhận rằng hầm trú ẩn của ông Giáp khá an toàn, nằm ngoài tầm trọng pháo của quân Pháp). Ðó là chưa kể cái tội ăn nằm với một cô giáo tới nhà dạy piano. Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đã đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Trung Ương Ðảng, một hành động trước đó Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ còn tha, chưa nỡ tước bỏ. Bọn Lê Duẩn lột bỏ mũ mãng của Giáp nhưng còn cho mặc cái quần; bọn Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh lột hết. Trong mấy chục năm, Bộ Chính Trị đặt ra những chức cố vấn. Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công, vân vân, rồi sau này tới Võ Văn Kiệt, Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười đều được mời vào chức cố vấn; nhưng không ai ngó tới Võ Nguyên Giáp.

Võ Nguyên Giáp không bao giờ phản đối, cũng không hề cất tiếng than phiền về thân phận của mình. Lúc bị hạ bệ, đẩy xuống phụ trách việc cai đẻ, ông Giáp có thể từ chức, về hưu, vì đã ở tuổi 70 rồi, để tỏ thái độ, và giữ gìn danh tiết của một con người, nhất là của một ông tướng. Nhưng ông không dám cãi. Thái độ chịu đựng đó cũng thấy trong vụ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ phát động “Vụ Án Xét Lại Chống Ðảng.” Họ nhắm vào ông Giáp nhưng không đánh trực tiếp, mà tấn công vào những người đồng chí trung thành của ông: Thượng tướng Chu Văn Tấn, tư lệnh Quân Khu Việt Bắc; Thiếu tướng Ðặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ; Tướng Lê Liêm; Trung tướng Trần Ðộ; người tiếp nhận việc đầu hàng của tướng de Castries; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên cục trưởng tác chiến; Ðại tá Phạm Quế Dương; ông Hoàng Minh Chính; Ðại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Tổng Tham Mưu, trưởng đoàn quân sự Việt Nam trong hội nghị Trung Giá; Ðại tá Ðỗ Ðức Kiên; Ðại tá Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân Báo; Ðại tá Nguyễn Văn Hiếu chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng; và Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, vân vân. Tất cả bị vu cáo tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài.” Võ Nguyên Giáp biết những lời cáo buộc đó đều là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, không bênh vực, không bảo vệ, hay giúp đỡ những đồng đội trung thành đang bị bè lũ cầm quyền đàn áp.

Thái độ “chui trong hầm trú ẩn” của ông không biểu lộ trong đời tư mà thôi; trong cả việc công cũng vậy. Ông Giáp không nói một lời nào khi các chính sách kinh tế của đảng làm dân tộc kiệt quệ, nhiều nông dân chết đói, trong lúc ông đang làm phó thủ tướng. Gần đây, ông không hề lên tiếng khi đảng cộng sản đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Biển Ðông và đánh giết ngư dân Việt Nam. Ông không bàn một lời nào đến nạn tham nhũng lan tràn, hoàn toàn im lặng khi các nông dân mất ruộng, mất nhà đi biểu tình phản đối khắp nước. Việc ông lên tiếng về vụ bô xít giúp người ta nhớ đến ông; nhưng sau đó ông lại tiếp tục chui xuống hầm; bị coi là chỉ “đánh trống bỏ dùi.” Trước sau, ông Võ Nguyên Giáp vẫn chui dưới hầm, ngoài tầm pháo kích của các đồng chí đang nắm quyền sinh sát.

Giải thích thái độ im lặng của ông Giáp bằng tinh thần kỷ luật của một đảng viên trung kiên thì không đủ. Nhiều đảng viên và tướng lãnh đã từng lên tiếng phản đối chính quyền cộng sản tham nhũng, lệ thuộc Trung Cộng, và bất lực về kinh tế.

Các tướng Trần Ðộ, Nguyễn Văn Vịnh, Ðại tá Phạm Quế Dương, họ đâu có cam ngậm miệng khi thấy lòng dân phẫn uất?

Cho nên, ông Võ Nguyên Giáp lựa chọn chui xuống hầm chỉ vì lo cho chính ông, và con cháu ông.

Ông Giáp biết các đồng chí trong đảng Cộng sản không từ bỏ một thủ đoạn nào khi họ cần bảo vệ quyền hành. Họ cướp được chính quyền là nhờ dám giết người nhiều hơn, tàn bạo hơn những đối thủ chính trị của họ. Chính ông đã chỉ huy các vụ tàn sát các đảng phái quốc gia yêu nước trong năm 1946; ngụy tạo vụ Ôn Như Hầu để bắt, giết các chiến sĩ Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính, những người thoát chết phải sang Trung Quốc lưu vong. Ông đã biết rằng trong đảng bất cứ ai cũng có thể bị thủ tiêu. Ông biết những cái chết bất đắc kỳ tử mờ ám của bộ trưởng Dương Bạch Mai hay Ðại Tướng Hoàng Văn Thái. Sống trong chế độ cộng sản, không ai được an toàn. Ngay sau khi Lê Duẩn chết, các con ông ta còn hỏi Phó Thủ tướng Trần Duy Thành: Liệu “họ” có giết chúng cháu không; theo lời ông Thành kể trong hồi ký.

Mối lo lắng của ông Võ Nguyên Giáp được biểu lộ ngay cả khi chữa bệnh. Bác sĩ Phạm Văn Ngà, người săn sóc sức khỏe cho ông trong 30 năm, kể rằng: “Ðại tướng có một nguyên tắc bất di bất dịch là không bao giờ uống thuốc của ai đưa cho, kể cả con cái, trừ Bác sĩ Ngà.”

Nhờ biết thân, biết phận, giữ mình như vậy, ông vẫn được chế độ hậu đãi. Ông được cung cấp đủ dinh thự, xe cộ, phụ tá, nhân viên văn phòng, bác sĩ, y tá thường trực, vệ sĩ, người giúp việc, và mọi thứ bổng lộc, phụ cấp. Vì ông biết giữ mồm giữ miệng. Lâu lâu ông lại được các thuộc cấp cũ còn tại chức mời dự tiệc, liên hoan, để thấy mình vẫn còn được trọng vọng. Nhưng luôn luôn giữ mồm, giữ miệng; không nói một lời nào “chệch hướng.” Trong đời tư, ông được người ta kính trọng vì lối sống đơn giản, không chạy chọt cho con em làm giầu quá đáng, như các quan chức lớn khác. Ðó cũng là điều Jonathan Head coi là lý do tại sao nhiều cựu chiến binh và giới trẻ còn ngưỡng mộ, đi viếng tang Tướng Giáp.

Nhà báo Jonathan Head viết: “Ông là người giản dị, lịch thiệp và sống đơn giản, họ nói với tôi.” Lời giải thích này khiến Jonathan Head thấy những người dân đi viếng tang ông Giáp là để phản kháng đám lãnh tụ cộng sản đang cầm quyền, một cách gián tiếp. “Những phẩm chất họ ngưỡng mộ nơi ông cũng chính là điều khiến họ bất bình cực độ với giới lãnh đạo hiện nay. Những người đó đã để nạn tham nhũng và trục lợi cá nhân hoành hành; những người đó không đủ cứng rắn khi đối phó với Trung Quốc,” vân vân. Jonathan Head kết luận, “Sau khi chết, ông Giáp lại được người dân nhìn nhận như một biểu tượng của tất cả những gì mà các lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay không có.” Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chắc cũng hiểu được thông điệp này. Phản kháng một cách gián tiếp chắc không đủ để bọn họ chuyển lòng, chú ý đến lợi ích của dân Việt Nam hơn. Nhưng trong đám tang ông Giáp, người dân làm được tới đó là quý lắm rồi. Bởi vì con người ông Giáp không thể nào khích lệ cho ai đứng lên phản kháng một cách mạnh mẽ hơn được. Chính ông là tấm gương nhịn nhục, chịu đựng suốt đời, để được sống an thân, khi chết thì được nghe điếu văn, truy điệu. Chắc chắn đó không phải là một tấm gương cho những thanh niên thời nay, như Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Uyên Phương!

Thursday, October 17, 2013

Phụ nữ lên mạng truy tìm cha Việt kiều Mỹ cho con

Bà Trần Kim Tốt 26 tuổi, quê quán ở xã Tịnh Thới, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Ðồng Tháp tung một bức thư lên mạng Internet tìm cha cho con, vốn là một Việt kiều Mỹ tên Nguyễn Trần Ðạt, 54 tuổi, cư dân thành phố Fullerton, tiểu bang California.
Trả lời phóng viên Người Việt qua điện thoại sáng 15 tháng 10, bà Trần Kim Tốt, xác nhận mình là tác giả bức thư và cho biết là “muốn đánh thức lương tâm người cha của đứa con trai bị bỏ rơi” và để “cầu xin mọi người tìm cha cho con trai của mình.”


Ông Nguyễn Trần Đạt và cô Trần Kim Tốt. (Hình của gia đình bà Trần Kim Tốt cung cấp)

Tuy nhiên, một ngày sau, phóng viên báo Người Việt tìm cách liên lạc với “người cha của đứa con của bà Trần Kim Tốt” để có thêm thông tin từ chiều ngược lại, ông Nguyễn Trần Ðạt phủ nhận hoàn toàn lời của bà Trần Kim Tốt. Ðồng thời ông Ðạt đưa ra lý do khiến ông cắt đứt tình nghĩa với người đàn bà này và hủy bỏ việc bảo lãnh bà Tốt cùng đứa con trai bé bỏng sang Mỹ.
'Không giữ lời hứa'
Bà Trần Kim Tốt kể đầu đuôi ngọn nguồn với phóng viên báo Người Việt, nói rằng, đã gặp ông Nguyễn Trần Ðạt lần đầu tiên hồi năm 2010 nhân dịp ông này về thăm Việt Nam.

Bà Kim Tốt cho biết, ông Nguyễn Trần Ðạt mau chóng thu phục được cảm tình của bà ngoại và cha mẹ của bà bằng lời lẽ, thái độ tỏ ra chân thành. Ông Nguyễn Trần Ðạt còn đưa bà đến thăm người mẹ ruột của ông ở hẻm số 207 đường Nguyễn Văn Ðậu, phường 11, quận Bình Thạnh, Sài Gòn. Lúc đó, mẹ của ông đang bệnh, được em gái của ông săn sóc.
Bà Tốt kể, “ông Nguyễn Trần Ðạt còn đưa bà đến Sở Tư Pháp tỉnh Ðồng Tháp, Tổng Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và một văn phòng dịch vụ để làm thủ tục kết hôn và bảo lãnh bà sang Mỹ. Bà Tốt và mọi người trong gia đình tin cậy hoàn toàn vào ông Ðạt.”


Lễ đính hôn giữa ông Nguyễn Trần Ðạt và bà Trần Kim Tốt. (Hình của gia đình bà Trần Kim Tốt cung cấp)

Vẫn theo lời bà Tốt, “ngày 4 tháng 12 năm 2011, ông Nguyễn Trần Ðạt và bà Tốt làm lễ đính hôn trước sự chứng kiến của mọi người trong gia đình đàng gái. Còn phía đàng trai không có ai tham dự, và 'chú rể' nại lý do rằng bà mẹ vẫn còn nằm liệt trên giường bệnh.”

Sau ngày này, hai người chung sống với nhau như vợ chồng. Kết quả là bà Tốt có thai, hạ sinh một đứa bé trai bụ bẫm. Tuy nhiên, vẫn theo lời bà Tốt, “từ khi trở về Mỹ sau lễ đính hôn, ông Nguyễn Trần Ðạt không tha thiết đến việc bảo lãnh bà Tốt và đứa bé sang Mỹ như lời hứa ban đầu.”

“Thư từ qua lại ngày càng thưa thớt. Ông Ðạt còn mắng bà Tốt 'tham tiền, đòi hỏi quá đáng' và nghi ngờ đứa trẻ trong bụng của bà Tốt không phải là giọt máu của ông. Cho đến tháng thứ sáu sau khi sinh con, bà Tốt hầu như mất hẳn liên lạc với ông Nguyễn Trần Ðạt.”


Hình bà Tốt do ông Nguyễn Trần Ðạt cung cấp.

Trong thư kêu cứu tung ra công luận, bà Tốt nói “không muốn gì ở chàng sở khanh lường gạt cô gái ngây thơ như mình.” Bà tâm sự rằng, chỉ mong ông Ðạt tỏ trách nhiệm với giọt máu của ông.

Vẫn qua điện thoại, bà Trần Kim Tốt cho báo Người Việt biết, đứa con rơi của ông Nguyễn Trần Ðạt và bà nay đã tròn một tuổi, đang sống cùng bà. Hiện nay, bà đang làm công cho một nhà hàng ở thành phố Sa Ðéc, lương ba cọc, ba đồng nên không đủ tiền để nuôi con. Cha mẹ ruột của bà trú ngụ tại thành phố Cao Lãnh từ lâu đã khổ sở vì “búa rìu dư luận.” Cuộc sống quá chật vật, bà đã tìm mọi cách để kêu gọi lương tâm và trách nhiệm làm cha của ông Nguyễn Trần Ðạt. Tuy nhiên, cho đến nay, bà cho biết, hầu như “hết cách” trong khi ông Nguyễn Trần Ðạt hầu như “không một chữ hồi âm.”

Bà Trần Kim Tốt còn nói, đã biết tin ông Nguyễn Trần Ðạt lại đi cưới một cô gái khác ở Phú Yên và hứa hẹn tháng tới đây sẽ đưa phụ nữ này (đang mang thai khoảng 5 tháng với ông), cùng về Mỹ “đoàn tụ gia đình.”
'Bị lừa và đang phải trả giá'
Nhờ số điện thoại do bà Trần Kim Tốt cung cấp, phóng viên báo Người Việt đã tìm cách liên lạc với “người cha của đứa trẻ” mà bà Trần Kim Tốt đang truy tìm. Sau nhiều cuộc gọi bất thành, cuối cùng phóng viên báo Người Việt cũng đã bắt được liên lạc với ông Nguyễn Trần Ðạt.


Biên nhận một lần ông Ðạt chuyển tiền về cho bà Tốt. (Hình: Ông Nguyễn Trần Ðạt cung cấp)
Ông xác nhận chính mình đang bị dư luận công kích kịch liệt và gọi thẳng là “kẻ sở khanh, dùng mác Việt kiều lừa một cô gái nhẹ dạ ở Việt Nam cho đến bụng mang dạ chửa.”

Ông Ðạt kể cho biết, đã quen biết bà ngoại của bà Trần Kim Tốt qua lời giới thiệu của một gia đình đồng hương ở Austin, Texas, có nhà ở Thị Nghè, Sài Gòn.

Gặp bà Tốt và đồng ý cưới bà, ông Nguyễn Trần Ðạt đã chi khoảng 5,000 đôla để tổ chức một lễ hỏi theo đúng nghi thức truyền thống tại thành phố Cao Lãnh. Sau đó, ông lo làm thủ tục giấy tờ để bảo lãnh bà sang Hoa Kỳ theo diện hôn thê.

Ông Ðạt nói rằng, ông hết sức bất ngờ khi vỡ lẽ ra nhiều “sự thật phũ phàng.”

Với một ít ngậm ngùi, cay đắng, ông Ðạt cho biết điều làm ông kinh ngạc là bà Tốt tuyên bố “không muốn qua Mỹ, vì không biết làm gì để kiếm tiền,” ngay sau khi cho ông hay tin đang mang trong người giọt máu của ông.

Ông Ðạt nói rằng, lúc đó ông thật lòng muốn xây dựng gia đình riêng, muốn có con, vì tuổi lớn và cũng đang mắc bệnh tiểu đường khá nặng. Vì vậy, khi hay tin bà Tốt mang thai một tháng, ông lập tức gửi quà và tiền về cho “bà xã” thông qua cơ sở gửi hàng Home Entertaiment & Cargo ở đường Westminster, thành phố Westminster, California.

Ông gửi cho Người Việt xem hai giấy chứng nhận, đề ngày 15 tháng 1, 2012 số tiền 300 đôla, và ngày 4 tháng 2 khoản tiền 2,000 đôla.


Hồ sơ ông Ðạt gởi cho sở di trú định bảo lãnh bà Tốt sang Hoa Kỳ. (Hình: Ông Nguyễn Trần Ðạt cung cấp)

Chưa hết, ngày 7 tháng 4, 2012, ông còn gửi về một thùng quà nặng 34 lbs, trị giá khoảng 120 đôla gồm quần áo, kẹo bánh, thuốc men, kem dưỡng da v.v... cho bà Trần Kim Tốt.

Theo lời trần tình của ông Ðạt, bà Tốt bảo ông phải gửi về 4,000 đô la thì bà mới “giữ cái bào thai,” vì “không có tiền trả nợ thì bị xã hội đen thanh toán.”

Ông hỏi nguyên nhân mắc nợ, bà Tốt gạt đi không nói. Sau đó, bà Tốt tiếp tục đòi ông Ðạt gửi thêm 5,000 đôla nữa, và buộc ông phải đều đặn gửi về mỗi tháng 300 đôla để bà nuôi con.

Lần này, bị ông Ðạt từ chối, bà Tốt đã đến tận nhà mẹ và các em của ông ở Sài Gòn quấy rầy, đòi phải đưa tiền...

Ông Nguyễn Trần Ðạt còn kể, sau này ông còn biết thêm, bà Tốt đã có một người chồng tên Thông, cán bộ một ngân hàng thành phố Cao Lãnh.

Vì ông này đã có vợ, bà bị đánh ghen, buộc phải “nhả” ông Thông ra.

Ông Ðạt xác nhận với Người Việt, đã yêu một phụ nữ thứ hai - sau bà Tốt, và đang làm thủ tục bảo lãnh bà này sang Mỹ, sau khi hủy bỏ việc bảo lãnh bà Trần Kim Tốt.

Ông nói: “Tôi không muốn đưa sự việc lên báo để giành phần đúng, sai; mà chỉ muốn câu chuyện được giải quyết để được sống yên ổn.”

Ông Ðạt cho hay, đã nhờ một văn phòng luật sư lo liệu và khẳng định với Người Việt rằng ông “đã trả giá quá đắt cho bài học này.”

Wednesday, October 16, 2013

PHẢI LÀM KHÁC ĐI, PHẢI XÂY THẬT KIÊN CỐ, nhưng như vậy cần TRÍ, sau là TIỀN, và đây là nói bạc CHỤC TỶ, TRĂM TỶ ĐÔ

"Miền Trung ngập trong lũ":
http://vnexpress.net/tin-tuc/xa-hoi/...u-2896037.html

Điều quan trọng không báo VN nào nhắc tới, và người dân không biết, đó là hậu quả SAU lũ về sức khỏe dân chúng sẽ vô cùng to lớn.

Các căn nhà sau khi rút hết nước sẽ vẫn còn lại vô số vi trùng, sán, giun, và nguy hiểm nhất là NẤM.

Nhiều loại nấm rất nhỏ, không mùi không vị, nhưng tiết ra chất rất độc, làm suy thoái trí não.

Nhiều loại khác nếu rủi hít vào phổi sẽ làm nhiễm độc, hư phổi rồi chết. Nhiễm độc NẤM TRONG ĐƯỜNG HÔ HẤP lại rất khó trị, phải uống thuốc rất mắc tiền trong ÍT NHẤT 6 THÁNG, có khi cả đời.

------------------------

Nấm khó trị, dai dẳng, hơn virus, bacteria nhiều.

Ngoài ra, trứng các loài giun sán tràn lan, cũng sẽ gây hại không kém.

Rồi biết bao sinh vật, côn trùng bị chết, làm xáo trộn toàn hệ sinh thái.

Đất đai xói mòn, do đất bị cuốn ra biển, làm đất trong vùng bị trũng đi, sau này dễ bị lụt.

Nhiều chất khoáng bị trôi mất, đất đai sẽ trơ ra, cằn cỗi, không trồng trọt gì được.

------------------------

Báo chí và người VN chỉ nhìn thấy nước, gió, chứ không nhìn ra biết bao sự việc khác.

Hàng triệu trẻ em trong vùng sẽ bị thất học, thiểu học, sau này khi lớn lên sẽ không làm gì nên thân, không thể đóng góp vào khoa học kỹ thuật, làm hàng giá trị gia tăng, mà nói thật nếu trai không làm cướp, gái không làm điếm là may lắm rồi.

Xây lại để làm gì, nếu theo kiểu cũ? 1, 2, 5 năm sau sẽ sập lại.

PHẢI LÀM KHÁC ĐI, PHẢI XÂY THẬT KIÊN CỐ, nhưng như vậy cần TRÍ, sau là TIỀN, và đây là nói bạc CHỤC TỶ, TRĂM TỶ ĐÔ.

Bằng chứng BÁN NƯỚC của giáp

"Điện ngày 29/8/1954 của La Quý Ba Đại sứ đầu tiên củaTrung Quốc báo cáo TW Đảng Cộng sản Trung Quốc về lễ tiếp đón đại sứ ở Việt Nam"




Dịch:

Tới ngày 28 đến An Thị, Thái Nguyên, báo cáo tóm tắt như sau: TW Đảng Cộng sản Việt Nam [CHÚ Ý: tên bên ngoài là "Đảng Lao động VN", nhưng NỘI BỘ luôn gọi là ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM] đã phái đại biểu Đảng, Chính phủ, quân đội, ông Trần Công Trường Thứ Bộ trưởng Bộ Tư pháp và năm người đón tại Mục Nam Quan. Từ Mục Nam Quan đi đến Thái Nguyên trên đường có bố trí các trạm gác vũ trang, đi qua các bản làng, bố trí cờ hoa, quần chúng đứng dọc hai bên đường hoan nghênh. Tình hình rất náo nhiệt. Chiều 28 đến Thái Nguyên,đđ/c Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và các thủ trưởng Bộ, các đảng phái dân chủ, các đoàn thể nhân dân đón tiếp long trọng. Dàn nhạc cử Quốc ca hai nước, duyệt dội quân danh dự. Buổi tối đđ/c Phạm Văn Đồng mở tiệc chiêu đãi, phát biểu hoan nghênh, đọc lời chúc mừng và đề nghị tôi nói chuyện. Theo thông lệ ngoại giao, đại sứ trước khi trình quốc thư không tiện phát biểu ý kiến, do đó tôi cáo từ nhưng phía Việt Nam nhất mực yêu cầu vì quan hệ Việt - Trung có khác, không ràng buộc câu thúc bởi thông lệ. Để biểu thị tình hữu nghị Việt Trung thắm thiết, tôi không thể chối từ lại không kịp xin chỉ thị trong tình huống này tôi đã đáp từ hai điểm biểu thị cảm ơn sự đón tiếp nồng nhiệt của Chính phủ và nhân dân Việt Nam và tình hữu nghị hai nước Trung Việt.

Sớm nay Chủ Tịch Hồ Chí Minh biểu thị phía Việt Nam muốn viết bài về tình hình đón tiếp dọc đường đi và bài nói chuyện của hai bên. Phóng viên Tân Hoa xã của đoàn đã viết bài điện gửi cơ quan Tân Hoa xã trong nước. Tôi đã bảo phóng viên Tân Hoa xã ghi rõ bài này liệu có thể đăng phải có chỉ thị Trung ương quyết định. Xử lý như thế liệu có thoả đáng xin cho chỉ thị.

La Quý Ba
29/8/1954

Chết rồi, vẫn còn làm hại!

Thật ra trận này có từ cả tuần trước rồi, oánh bên Phi chết 13 người.

Nhưng vì VC lo chôn "Thánh Tướng" nên không lo gì khác, còn bày đặt "quốc tang, quốc táng", có anh nào tập thể dục trong khi quốc tang, quốc táng, cũng bị phạt nặng:

"Luyện tập thể thao ngày Quốc tang Đại tướng, 2 cán bộ bị kỷ luật":
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc...1410054596.htm

Thành ra không ai lo việc dự báo bão, chuẩn bị bão.

Các bạn chú ý thời điểm: Quốc tang, Quốc táng, là từ 12h trưa thứ 6 đến 12h trưa Chủ nhật.

Bão Nari đổ bộ vào VN khoảng 9h tối thứ 2.

-------------

Trước khi Nari đổ bộ vào VN khoảng 30h, hoàn toàn không có 1 chữ nào trên báo VN loan tin về việc bão SẮP, SẼ đổ bộ vào VN, sức gió mạnh khủng khiếp nhất trong 4-5 thập kỷ.

Chiều Chủ nhật, dân chúng KHÔNG HAY BIẾT GÌ.

Nếu báo trước 1, 2 ngày, thì có thể thiệt hại thấp hơn nhiều.

Mãi cho tới SÁNG THỨ 2, chừng 12-6h trước khi đổ bộ, thì dân chúng mới được thông báo!

Khi đó muộn rồi, muốn chạy đi mua miếng ván, cây đinh, dây cột, cũng khó, không kịp mua, không kịp chở về, không kịp đóng.

1 số đông dân chúng chỉ kịp bỏ chạy mà thôi.

Do đó thiệt hại mới hết sức khủng khiếp thế này.

-------------

Dân chúng chỉ biết kêu trời, trách trời, van xin trời, chứ ÍT AI HIỂU VÌ "QUỐC TANG, QUỐC TÁNG" MỚI BỊ THIỆT HẠI THẾ NÀY.

Thôi thì mạng ai nấy giữ, nói nhiều vô ích.

Khóc đi cưng, khóc nữa đi cưng, quỳ lạy tên phản quốc đi cưng.


SAU KHI CHẾT, TÊN PHẢN QUỐC NÀY VẪN CÒN LÀM HẠI DÂN CHÚNG HẾT SỨC KINH KHỦNG, CHƯA TỪNG THẤY TRONG 50 NĂM!

Tuesday, October 8, 2013

Chỉ huy nhưng không lãnh đạo


Ngô Nhân Dụng

Nghe tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời, chỉ mấy giờ sau tôi được nghe những lời nhận xét đầu tiên về ông là bài phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Minh Cần, trên đài RFI. Cụ Nguyễn Minh Cần tỏ ý kính trọng tư cách cá nhân và phương pháp làm việc của ông Võ Nguyên Giáp trong thời gian làm việc với ông trong chiến dịch “Sửa Sai” cuộc cải cách ruộng đất. Ðại tướng Võ Nguyên Giáp được đảng Cộng sản đưa ra chỉ huy vụ sửa sai, còn Giáo sư Nguyễn Minh Cần phụ trách bộ phận sửa sai của thành phố Hà Nội, cho nên hàng ngày hai người làm việc chung.

Tôi tin tưởng ở tinh thần trung thực và trí phán đoán của cụ Nguyễn Minh Cần. Cụ đã từng đi kháng chiến, vào đảng Cộng sản, sau năm 1954 từng đứng trong số lãnh đạo thủ đô Hà Nội. Cụ được cho đi Nga học, từ chối không nghe lệnh Lê Duẩn bắt về nước; rồi sau đó đã dứt khoát từ bỏ đảng từ gần nửa thế kỷ nay. Nếu về nước cuối thập niên 1950 chắc cụ cũng bị bắt bỏ tù, như những Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, vân vân, về tội “xét lại chống đảng.”

Cụ từ chối lệnh triệu hồi, ở lại Nga, cũng như một số đồng chí khác cùng phản đối chủ trương tiếp tục tôn thờ Stalin của đảng. Có người đã tự tử vì thấy cuộc cách mạng đã bị phản bội, còn mình thì bất lực, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Một lần, cùng đi trên đại lộ Arbat ở Moscow, cụ Cần chỉ lên tầng lầu một ngôi nhà cao, ngậm ngùi kể tôi nghe: “Anh Văn Doãn đã nhẩy từ trên lầu này xuống đường, anh chết ngay.” Nguyễn Minh Cần đã quyết định sống và tiếp tục cuộc tranh đấu. Mấy chục năm gần đây, cụ là một tiếng nói có uy tín và hùng hồn nhất, cùng chúng ta kêu gọi xóa bỏ chế độ cộng sản độc tài, xây dựng nước Việt Nam tự do dân chủ.

Vì vậy, nghe cụ Nguyễn Minh Cần ngỏ những lời kính trọng con người của ông Võ Nguyên Giáp, tôi tin ông Giáp là một người có tư cách cá nhân đáng trọng. Theo cụ, ông Giáp làm việc tận tâm, chú ý đến con người, những người cộng sự cũng như các nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất. Cụ Nguyễn Minh Cần công nhận việc sửa sai không đi tới đâu hết, Võ Nguyên Giáp cũng chịu thua, “vì có những cái sai không thể nào sửa được.” Như những xác chết, những gia đình tan nát. Và cả những ngôi nhà bị tích thu đem chia, phát cho các cán bộ bần cố nông ở; khi phải rút đi họ đã tháo lấy hết đồ đạc, gỡ cả căn nhà, từ những hòn ngói trên mái đến những bậc lên cửa bằng gỗ.

Lịch sử Việt Nam sẽ ghi tên ông Võ Nguyên Giáp như vị tướng chỉ huy quân đội trong thời dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Như vậy cũng đủ cho ông hãnh diện khi nhắm mắt. Nhưng khi nhìn lại sự nghiệp của ông, một điều không thể quên được là ông đã đóng vai chỉ huy nhưng không phải là người lãnh đạo. Võ Nguyên Giáp đã làm đúng bổn phận với đảng Cộng sản, nhưng không giúp gì được cho việc thay đổi đường lối lãnh đạo của những Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Lê Duẩn.

Bởi vì trong các đảng cộng sản, tổng bí lãnh đạo, với ý kiến của Bộ Chính Trị. Coi các tài liệu của đảng vào thời chiến, bao giờ người ta cũng thấy các tấm hình được đưa lên cao là Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đang tham khảo các bản đồ trước các cuộc hành quân, Võ Nguyên Giáp chỉ là một người đứng bên cạnh. Ðảng Cộng sản không chấp nhận các “anh hùng,” nhất là anh hùng trong quân đội. Ở Nga, Stalin được ghi công đầu trong cuộc chiến “vệ quốc” thời Thế Chiến Thứ Hai. Các ông thống chế Nga đều được cho nghỉ hưu sau chiến tranh; nhiều người còn bị bức tử. Ðược phong làm đại tướng ngay từ khi kháng chiến bắt đầu, ông Giáp dừng tại đó, giữ nguyên một cấp bậc, không lên được nữa. Có lẽ bên Nga Stalin đã đeo quân hàm thống chế rồi cho nên mới phong cho các thống chế khác. Còn ở Việt Nam thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh không ai mặc quân phục, cho nên họ chỉ phong đến cấp đại tướng, và có nhiều đại tướng để không ai nổi bật lên.

Trong những hồi ký của các cố vấn Trung Cộng, viết sau khi ở Việt Nam về, họ cố ý đề cao vai trò của họ, và của Mao Trạch Ðông, và không ngại đưa ra những lời chỉ trích Võ Nguyên Giáp rất nặng nề. Họ kể công đã đưa ra các quyết định đúng nhất, nhiều khi ngược lại với ý kiến của Võ Nguyên Giáp, kể cả trong những vấn đề chiến thuật. Ngay trong chiến dịch biên giới năm 1950, hai cố vấn Trần Canh và Vi Quốc Thanh nói họ đã chọn mục tiêu tấn công chính, đã trình lên và được Mao Trạch Ðông chấp thuận, rồi mới đưa cho Hồ Chí Minh coi. Sau một đợt tấn công đầu tiên, Vi Quốc Thanh kể rằng Võ Nguyên Giáp đề nghị tạm ngưng để bồi dưỡng quân sĩ; và bị các cố vấn kịch liệt phản đối. Họ chê quân Việt Nam, từ cấp chỉ huy đến binh sĩ, đều “sợ khổ, sợ khó, sợ chết” cho nên mới đánh xong một trận đã muốn nghỉ ngơi. Họ nêu ra tấm gương quyết chiến của Hồng quân Trung Hoa để khuyên bảo, nhưng vẫn không thành công. Sau cùng họ phải xin ý kiến Mao Trạch Ðông, chính họ Mao quyết định, và Hồ Chí Minh đã đồng ý phải đánh tiếp. Trận đánh thành công, các cố vấn coi đó là nhờ chiến thuật “đánh không nghỉ” của họ.

Chúng ta khó tin hết những lời của các cố vấn Trung Cộng; cũng như không thể tin báo cáo của các quan thái thú, thứ sử các đời Hán, đời Ðường nói về tình trạng “man di” và “khó trị” của dân Giao Châu. Nhưng dù lời kể của Vi Quốc Thanh đúng một phần, chúng ta cũng thấy một điều là: Những người Việt chỉ huy quân Việt thì chắc thương binh sĩ cực khổ nhiều hơn các cố vấn người Tàu, cho nên họ mới muốn cho quân được nghỉ dưỡng sức sau mấy ngày chiến đấu không được ăn một bữa cơm. Nếu ý kiến của họ được thi hành thì chắc kết cục của trận đánh cũng không thay đổi; mà chắc số tử sĩ người Việt sẽ thấp hơn.

Căn cứ vào nhận xét của Giáo sư Nguyễn Minh Cần thì chúng ta có thể đoán ông Võ Nguyên Giáp đối xử với thuộc cấp trong quân đội cũng giống như trong chiến dịch sửa sai. Chắc ông giữ được tính thân thiện, gần gũi, chú ý đến con người chứ không phải chỉ chú ý đến công việc, và làm gương về đức tận tụy trong khi làm bổn phận. Ông Giáp không học trường quân sự nào, nhưng chắc ông cũng như những người Việt Nam cùng thế hệ, đã học “đạo làm tướng” của Tôn Võ, Ngô Khởi, Nhạc Phi, khi đọc các tiểu thuyết lịch sử bên Tàu. Một bí quyết của người làm tướng là phải gần gũi, thân thiết với binh sĩ. Ngô Khởi đã từng tự mình chữa trị thương tích cho lính, có lúc dùng miệng hút mủ từ vết thương của lính. Ðức tính đó không phải ai cũng tập được, nhưng chắc ông Võ Nguyên Giáp đã thể hiện trong công việc chỉ huy của ông. Tôi đã gặp một vị cựu đại tá từng bí thư dưới quyền ông Giáp. Mặc dù đã gặp nhiều gian truân, tù tội, mà ông Giáp không cứu được, vị đại tá này cho đến trước khi qua đời nói đến ông vẫn tỏ lòng kính trọng.

Nhưng ngoài việc chỉ huy ra, ông Võ Nguyên Giáp không được coi là người lãnh đạo cuộc chiến tranh, vì các quyết định quan trọng nhất thuộc về Bộ Chính Trị, và các cố vấn Trung Cộng. Trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ cũng vậy. Lúc đầu, từ năm 1953 đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đánh xuống miền Trung Du để uy hiếp Hà Nội. Nhưng chính Mao Trạch Ðông đã quyết định phải mở cuộc chiến rộng khắp ba nước Ðông Dương, khuấy động cả Cambodia và Lào; để phục vụ cuộc cách mạng vô sản Ðông Dương và toàn thế giới, chứ không riêng một nước Việt Nam. Sau cùng, ý kiến của Mao đã được truyền xuống tới Hồ Chí Minh, và trở thành chiến lược chính thức. Vì vậy mới có trận Ðiện Biên Phủ. Các cố vấn Trung Cộng cũng tô hồng cho các quyết định sáng suốt của Mao Trạch Ðông trong trận đánh lịch sử đó; mà theo họ từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp chỉ đóng vai thi hành; mặc dù họ được khen ngợi là đã chấp hành rất giỏi. Các nhà nghiên cứu lịch sử sau này sẽ tìm hiểu rõ sự thật về các vấn đề đó.

Như Giáo sư Nguyễn Minh Cần phát biểu, trong lúc ông Võ Nguyên Giáp mới nhắm mắt, chúng ta hãy khoan không cần nói đến những nhược điểm của ông và vai trò yếu ớt của ông trong mấy chục năm cuối đời. Ông không đóng một vai trò quyết định nào trong chính sách của đảng Cộng sản. Có giả thuyết nói rằng Võ Nguyên Giáp chủ trương không đánh miền Nam, và bị thua phe Lê Duẩn chủ chiến. Nhưng sau khi đảng Cộng sản đã quyết định đánh, ông lại tuân thủ và tích cực thực hiện. Trong mười năm gần đây, nhiều người trong nước trông mong ông đứng ra phản đối các chính sách, đường lối của nhóm cộng sản cầm quyền tham nhũng, thối nát và bất lực trong việc đưa đất nước tiến lên, nhưng ông hoàn toàn im lặng. Chỉ có một lần ông lên tiếng phê bình việc khai thác bô xít, nêu cả lời khuyên của các cố vấn Nga ngày xưa khuyên không nên làm vì hại cho môi trường. Nhưng sau cùng, đảng Cộng sản bỏ ngoài tai. Ông cũng không dám phản đối đến cùng, vì không thể nào thay đổi chính sách của đảng Cộng sản. Bây giờ, đảng Cộng sản Việt Nam kính trọng quyền lợi và ý kiến của các cố vấn Trung Cộng hơn.

Ông Võ Nguyên Giáp là một “đảng viên cộng sản tốt.” Nghĩa là lúc nào cũng tôn trọng các chính sách do đảng quyết định. Ðảng bảo làm gì thì ông làm, không bảo thì ông không cần làm gì cả. Trong đảng, thời chiến cũng như thời bình, ông lúc nào cũng tuân thủ lệnh đảng. Cá nhân của ông không quan trọng. Ông theo đảng Cộng sản và suốt đời gánh chịu các hậu quả của lựa chọn đó. Cho nên việc đánh giá cá nhân ông không quan trọng. Ông đã được đưa ra chỉ huy quân đội, nhưng ông phải là người lãnh đạo. Quân đội đó được đảng Cộng sản sử dụng thế nào, dùng vào việc gì, chuyện đó nằm ngoài lãnh vực ông phụ trách. Gần đây, báo chí của đảng Cộng sản nêu ra khẩu hiệu “Quân đội trung thành với Ðảng,” chứ không phải với Quốc gia. Không thấy ông Giáp bày tỏ ý kiến. Lúc nào ông cũng là một đảng viên trung thành với đảng.

Một độc giả báo Người Việt mới góp ý kiến sau khi nghe tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời. Bạn đọc này viết: “Tôi thấy dường như cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay ông Võ Nguyên Giáp không một lần tỏ ra ân hận về những việc của ông làm trong thời gian tại chức. Bằng chứng là khi trả lời phỏng vấn của một phóng viên ngoại quốc hỏi, “Général Giap, regrettez-vous de quatre millions de Vietnamiens... morts dans la guerre du Vietnam? “Thưa Ðại Tướng Giáp, ông có hối tiếc gì về việc bốn triệu người Việt đã chết trong chiến tranh Việt Nam không?) Và Tướng Giáp đã không đắn đo trả lời ngay, “Non, je ne regrette rien. NON, PAS DU TOUT!” (Không, tôi không hề hối tiếc. Không một mảy may nào).

Một đảng viên cộng sản gương mẫu bao giờ cũng chỉ tận tụy thi hành công tác do đảng giao phó, không cần suy nghĩ. Ý kiến cá nhân không đáng kể. Ông Giáp nói ông không hối tiếc về bốn triệu mạng người Việt đã chết. Không biết trong đáy lòng ông có cảm thấy thương xót hay không?

Ho Chi Minh, ông giáp, chẳng qua chỉ là 2 đứa cõng rắn cắn gà nhà, khôn nhà dại chợ mà thôi

Ai không biết sử, địa, chính trị, xã hội học, tâm lý học, phân tâm học, v.v.. thì không thể hiểu kinh tế tài chánh nổi đâu.

Do đó mà Vixi không đứa nào giỏi KT tài chánh, cho dù COCC đi Mỹ, Úc, Pháp học THẬT thì cũng không giỏi, nói gì đa số chỉ học qua mạng, hoặc trường không tới 1 sao.

--------------

Reasoning muốn khá thì phải có (1) kiến thức, (2) kinh nghiệm, (3) lòng trung thực.

Phải bỏ qua hết tất cả các thành kiến, các điều BỊ dạy trong trường, rồi nếu nói theo Thần học thì phải "thinh lặng, nhịn đói, và cầu nguyện".

Trong đêm tối, lòng lặng đi, khỏi các thị phi bên ngoài, ngồi SUY NGHĨ trung thực với lòng mình, thì mới CÓ THỂ, chỉ có thể thôi, nhận ra CHÂN LÝ.

Ví dụ, tại sao TQ giúp VN? Giúp ĐỂ LÀM GÌ, có lợi ích gì, và quan trọng hơn là VN nhận sự giúp đỡ này thì PHẢI TRẢ THẾ NÀO, RA SAO, BAO LÂU?

1 kg gạo TQ thì cũng phải trả lại cho họ, chứ không thể nhận "chùa".

--------------

Hồi đó đánh ĐBP, nếu không có TQ giúp, thì Việt Minh có gì mà đánh?

Có nhà máy đúc cà nông à, có nhà máy thép làm ra thép, rồi hàn, tiện, ra súng à? Nhà máy đạn dược ở đâu?

Mà mua thì tiền đâu, mua của ai, ai bán, làm sao chở về, làm sao phân phối?

Tại sao KHÔNG người VN nào tại VN SUY NGHĨ ra các điều này?

--------------

100% quân dụng là của TQ, mà TQ cho không hay sao, CÔNG BẰNG Ở ĐÂU, và TQ trong lịch sử có khi nào công bằng với VN hay không?

Và, họ cho VN như vậy, họ SẼ đòi cái gì?

Đây là các câu hỏi KHÔNG 1 thầy cô, GS, sử nào tại VN DÁM đặt câu hỏi, nói gì trả lời!

Tôi nói giùm cho:


TRUNG QUỐC NÓ SẼ ĐÒI ĐẤT ĐẤY, ĐỒ NGU!


Mà nếu chịu cho họ đất, đổi lấy quân dụng, thì có phải hóa ra là BÁN NƯỚC hay không?

--------------

Dùng từ mỹ miều hoa hòe gì cho lắm thì cũng không thể chối cãi là BÁN NƯỚC CHO TQ ĐỂ LẤY VŨ KHÍ ĐÁNH PHÁP, sau này là ĐÁNH MỸ.

Trong mấy sự lựa chọn, cái nào tệ hơn: bán nước cho TQ, hoặc để Pháp bảo hộ? Hoặc theo học Mỹ như Nhật, Nam Hàn?

Vixi chọn cái tệ hại nhất, như nay ngày càng rõ!

Theo tôi, cho dù không bị TQ đe dọa chiếm xứ, thì cũng nên NĂN NỈ XIN PHÁP BẢO HỘ, vì lẽ đơn giản là VN không đủ người, trí, tiền, để tự xây dựng quốc gia văn minh hiện đại.

Ngay cả năm 2013 hôm nay VN vẫn không đủ khả năng tự lực cánh sinh, tự lập nên quốc gia văn minh đâu, mà vẫn PHẢI nhờ vào cường quốc để lập quốc, giữ gìn quốc gia.

Chứ đừng nói hồi 1945, làm sao mà lập quốc, trừ khi nhờ TQ đô hộ, hoặc nhờ Pháp bảo hộ.

--------------

HCM chọn TQ, phe miền Nam chọn Thế giới Tự do. Như Bắc Hàn chọn TQ, Nam Hàn chọn Mỹ vậy.

Nay VC chạy theo ôm chân Nam Hàn, có phải nghịch lý không, vì Nam Hàn có khác gì Nam VN, như vậy thì khác gì VC nay chạy theo ôm chân Nam VN?

"Đánh thắng miền Nam" chỉ là việc thằng lưu manh đánh thắng ông Giáo sư, như 3 ông GS đoạt giải Nobel Y khoa năm nay, thằng lưu manh nào ngoài chợ Cầu Ông Lãnh, khu Tôn đản, lại không thể "đánh thắng".

Hay lắm sao, mà khoe rùm?

Khối gì người "hoạt động cho dân chủ" vẫn đang Lạy boác, dịp này tha hồ khóc rống

Như ông hồ thôi, ngay cả NTTrung, LC Định, cũng vẫn ĐANG Lạy boác đó thôi, tuy họ không còn quá Thờ đảng.

Hổm rày chắc 2 người này khóc thảm thiết vì thương, kính, phục ông giáp.

Khối gì người "hoạt động cho dân chủ" vẫn đang Lạy boác, dịp này tha hồ khóc rống, trong đó có CHH Vũ, số người bên Bauxite chấm côm.

 Các đám này có mẫu số chung: đó là đều thờ lạy ông hồ, ông giáp.

Monday, October 7, 2013

Giấu đầu lòi đuôi

Bắt quả tang VC che giấu việc ông Giáp chết ngắc từ lâu:
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/14372...--dao-yen.html

Thông báo nói chết ngày 4/10, nhưng 2 tuần trước đã lo dọn chỗ chôn.

Luật không cho làm mặt kiếng hòm ra vài tháng trước cũng có thể có liên quan, vì ông này ngủm cù tèo 3 năm rồi, nay viện cớ có luật này để khỏi cho thấy mặt.

Tuesday, October 1, 2013

'Gỡ khó cho bất động sản bằng 400 tấn vàng'" - hahahahahahahaha

'Gỡ khó cho bất động sản bằng 400 tấn vàng'":
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-t...g-2885972.html


Tôi không rõ ông Võ muốn nói gì?

Không lẽ muốn bóp cổ người ta lấy vàng, rồi dùng vàng mua BĐS, rồi bán đấu giá BĐS?

Như vậy cũng có cứu nền KT được đâu, vì có chăng là cứu các cty BĐS mà thôi.

Nói năng lòng vòng, không 1 chút logic.

Không đáng và không đủ khả năng tối thiểu vào học năm thứ 1 đại học 3 sao của Mỹ.