Wednesday, May 1, 2013

Huy Đức Bên thắng cuộc Phần I: Miền Nam Chương 1 Ba Mươi Tháng Tư

a mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.
Đi từ bưng biền
Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.
Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến rồi”.
Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.
Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.
Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.
Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.
Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại.
“Đại quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài Gòn.
Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.
Xuân Lộc
Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng của một trang sử.
Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.
Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.
Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.
Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng máy bay lên thẳng.
Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nóichuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tinlà tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4- 1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giànhtoàn thắng”14.
Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới. Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía Tây,Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy.
Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứhuấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòalãnh sự Mỹ ở thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.
Tướng Big Minh
Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng chấp chính.
Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng CụcĐịch vận Võ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ làSử Thị Hương.
Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.
Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai lần đều không gặp18.
Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương VănMinh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.
Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính phủThiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.
Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ởcủa gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng thống họp xong thì trình.
Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục cho chuyến bay.
Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tớicầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.
Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói “moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn sao”20.
Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô trưởng”.
Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài. Bộtrưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.
Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.
Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứHoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.
Trại Davis
Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định Paris.
Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.
Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.
Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”.
Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ôngLiễng. Do tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn.Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
Nguyễn Hữu Hạnh
Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng gần chục năm qua mang về kết quả.Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.
Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành – thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi
con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực
và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm lấy cơ hội cuối cùng.
Ông kể: “Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.
Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồiđi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.
Tình hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý.
Nhân khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.
Sài Gòn trong vòng vây
Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).
Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”.
Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới đất bắn lên, tức giận.
Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.
Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.
Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô chobiết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”.
Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu
Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di tản” bằng đường thủy.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tàixế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm:‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi:‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo, ông Minh đồng ý”.
Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.
Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).
Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn.
Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ
Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về
rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.
Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7
Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.
Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng
Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu.
Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầunói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.
Xe tăng 390
Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843
đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.
Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn
tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu
An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.
Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy
chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng thống – Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung ương tình báo./An”.
Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.
Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.
Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng
Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên.
Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh không có thời gian để tìm xem chị ở đâu.
Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một phát đạn nào.
Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm
Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào.
Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng [27].
Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. BùiQuang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như… cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.
Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận” [28].
Đầu hàng
Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: “Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói: ‘Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66′”.
Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức, người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật: “Tay Thệ cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn Tùng, xuất hiện”29.
Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”.
Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.
Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏdương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói: “Việc ấy là của tớ”.
Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh mình là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.
Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi – qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.
Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: “Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng một ý nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”.
Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.
Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng
tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”32. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ,mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi – giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng – kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”33.
Ông Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh.
Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉhuy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.
Ông Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng.
Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo chí Sài Gòn nhắc đến.
Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể34: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà
từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của một nước Việt Nam độc lập”35.
Tuẫn tiết
Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai có thể đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.
Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước, các sư đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di chuyển xuống Trà Nóc và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các tướng lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở hướng Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.
Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân: “Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay bắt đầu trúthết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó làA37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.
Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở ba nơi: Vĩnh Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí còn lại. Các lực lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn nguyên vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê VănHưng, người mà năm 1972 đã từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống”.
Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh Quânđoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua khỏi cầu CáiRăng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt Cộng pháo kích vào thị xã”.
Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đã sử dụngđiện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y đã nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình, vợ con được bảo toàn; bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo toàn tính mạng, mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày 30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời hứa bảo toàn tính mạng”38.
Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.
Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫnđịnh phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.
Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.
Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4-1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.
Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.
Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.
Chú thích chương I
1Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
2 Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
3 Đạo diễn điện ảnh.
4 Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
5 Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
6 Ngày 14-4-1975.
7 Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực thăng.
8 Trần Văn Trà, 1982, trang 254.
9 Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
10Sđd, trang 258.
11Sđd. Trang 261.
12Kissinger, 2003, trang 536.
13Kissinger, 2003, trang 543.
14Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
15Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
16Larry Berman, 2001.
17Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi Tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng" Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông là trung tướng.
18Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
19Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
20Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn Trà đánh giá: “Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật thà, tin vào phù phép của tả phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến giờ chót còn cố vươn vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang 283).
21Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo cứu hết sức giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời vẫn giữ được tờ Sự Vụ lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về sau, ông theo những người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và nhận lãnh vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm
thời cuộc hơn là được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là tình báo viên của miền Bắc, ông Nguyễn Đình Đầu nói ông cảm thấy như là bị xúc phạm.
22Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng quyền dân tộc căn bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
23Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
24Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh.
25Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
26Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384.
27Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà báo Cung Văn đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động trong các phong trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
28Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của mình không nói rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp giữa Bùi Quang Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc này đã trở thành Phó Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá cờ Ba que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả
hai cùng rách diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ cất đi. Ông Tài cho trải cả hai lá cờ ra, ráp diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ là lá cờ cuối cùng được Chính quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
29Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264 tháng 7-2006
30Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã Thanh Hóa.
31Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
32Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân hàm thiếu tướng lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận rằng chính ông là người bắt sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc.
Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Quân sự đã tổ chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc lập ngày 30-4-1975" nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát thanh tại thời điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của Lữ 203 và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện Lịch sử Quân sự đã ra kết luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ cùng các cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bùi Văn Tùng tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng”. Ngay sau khi công bố, Kết luận của Viện Lịch sử Quân sử đã bị ông Bùi Văn Tùng, các các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối (nhiều ý kiến đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264 tháng 7-2006).
33Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn Nhã. Lúc bấy bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử Địa, Đại học Sư phạm.
34Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần Văn Trà.
35Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975.
36Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
37Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ, Vĩnh Long trong ngày 30-4-1975.
38Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
39Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát vào lúc 3 giờ sáng ngày 1-5-1975”, tuy nhiên những người thân cận Tướng Trần Văn Hai nói ông tự sát vào chiều 30-4.
40Văn Tiến Dũng, 1976, 305.

Huy Đức Bên thắng cuộc Lời cám ơn

Trong quá trình thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ chí tình của nhiều nhân vật lịch sử, sự hợp tác của các nhân chứng, sự đóng góp của các đồng nghiệp, và sự ủng hộ của rất nhiều bè bạn.
Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp cho cuốn sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan, Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…
Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả với tư cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn sách này: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn…
Cuốn sách không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác và tư vấn của những người giúp việc, những người có nhiều năm gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng như ông Trần Việt Phương, ông Vũ Kỳ…; của nhóm giúp việc Tổng Bí thư Lê Duẩn: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, thư ký tổng bí thư, ông Đống Ngạc; của nhóm giúp việc và chuyên gia tư vấn của Tổng Bí thư Trường Chinh: Tiến sỹ Hà Nghiệp, Giáo sư Trần Nhâm, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Giáo sư Dương Phú Hiệp, Giáo sư Đào Xuân Sâm, ông Trần Đức Nguyên…; của những người giúp việc Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: ông Trần Văn Giao, ông Hồng Đăng, ông Dương Đình Thảo, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh; của những người giúp việc Tổng Bí thư Đỗ Mười: Thống đốc Lê Đức Thúy, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam; của những người giúp việc Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Trợ lý Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý Nguyễn Trung, Trợ lý Vũ Đức Đam, ông Phạm Văn Hùng, ông Nguyễn Văn Huấn, Bác sỹ Đinh Trần Nhưng, Thư ký Nguyễn Văn Trịnh…; của những người giúp việc Thủ tướng Phan Văn Khải: Trợ lý Nguyễn Thái Nguyên, Trợ lý Nguyễn Đức Hòa, Thư ký Nguyễn Văn Kích; của người viết tự truyện cho Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tá Khuất Biên Hòa.
Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thụy Nga, phu nhân Tổng Bí thư Lê Duẩn, bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Phan Lương Cầm, phu nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trả lời phỏng vấn và cung cấp thông tin, tư liệu. Xin cám ơn sự giúp đỡ của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể, và Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn; bà Võ Hiếu Dân, con gái, và ông Phan Thanh Nam, con trai Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, con trai Tổng Bí thư Trường Chinh.
Cuốn sách cũng nhận được sự cộng tác rất tận tình của các vị từng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành chính sách ở các giai đoạn khác nhau của Việt Nam như Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe (1946-1960), Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc (1992-2002), Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá, Tổng Cục trưởng Địa Chính Tôn Gia Huyên, các đời chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Đoàn Trọng Truyến, Lê Xuân Trinh, Lại Văn Cử, Đoàn Mạnh Giao, Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Hữu Thọ…
Đặc biệt cám ơn các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh như Cục trưởng Tác chiến, Trung tướng Lê Hữu Đức, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Lê Phi Long, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Phan Hàm, những người trong gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn, Cục trưởng Tình báo Quân đội Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tá Nguyễn Văn Huyên…
Xin chân thành cám ơn các nhà cách mạng lão thành đã cung cấp cho tác giả hơn năm mươi cuốn hồi ký, phần lớn chưa từng xuất bản. Có những cuốn có giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng, như các tập hồi ký của Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, một người từng gần gũi với Tổng Bí thư Trường Chinh, từng chỉ huy mạng lưới tình báo miền Bắc ở miền Nam và từng là trưởng Ban Bảo vệ Trung ương Đảng. Có những cuốn rất thẳng thắn của Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV Nguyễn Thành Thơ, người từng chỉ đạo kinh tế mới và hợp tác hóa ở miền Nam. Có những cuốn tiết lộ xung đột đảng phái thời kỳ ngay sau 1945 của Đại tá Công an Trần Tấn Nghĩa, người nhận lệnh trực tiếp ám sát và bắt giữ các thành viên đảng phái không cộng sản trong các năm 1945, 1946. Có những cuốn nói về thời kỳ “giúp bạn” Campuchia của Đại sứ Ngô Điền, Đại sứ Trần Huy Chương. Cũng có những cuốn rất thú vị, giúp tiếp cận với những góc độ khác của các nhà lãnh đạo tối cao như tự truyện của bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hồi ký của bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Tác giả xin chân thành cám ơn các sỹ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa: Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa tháng 1-1974; cám ơn Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Hảo, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dân biểu Ngô Công Đức; cám ơn nhà văn Phan Nhật Nam, các nhà thơ Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, nhà văn Uyên Thao; cám ơn Giáo sư Lê Xuân Khoa, bà Khúc Minh Thơ, những người đã giúp tác giả hiểu thêm về những nỗ lực của cộng đồng để giúp những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ.
Tác giả cũng chân thành cám ơn Giáo sư Thomas Bass (Đại học Albany-SUNY), người đã thu xếp cuộc phỏng vấn cựu ngoại trưởng Henry Kissinger tại Boston vào tháng 2-2006; chân thành cám ơn các nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, Yên Ba, Nguyễn Khoa Diệu An, Trần Chí Hùng, Nguyễn Giang, Đinh Quang Anh Thái, Nguyễn Khanh, Lê Thiệp, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà ngoại giao Đinh Hoàng Thắng, nhà nghiên cứu Lưu Thu Hương, Tiến sỹ Trần Tố Loan đã giúp tác giả tiếp cận với nhiều nhân vật và nhiều tài liệu lịch sử quan trọng. Tác giả cũng xin chân thành cám ơn hàng trăm chính khách, sỹ quan, nhà tư sản, nhà báo, thường dân, các thuyền nhân và nạn nhân của những biến động sau năm 1975, những người đã giúp tác giả có được những câu chuyện sinh động. Những trích dẫn không có chú thích trong cuốn sách này được lấy từ những cuộc trò chuyện do tác giả thực hiện trực tiếp với các nhân chứng.
Xin cảm ơn nhà thơ Bùi Khương Hà, người đã đọc những chương đầu tiên trong bản thảo đầu tiên và có những ý kiến xác đáng giúp tác giả điều chỉnh nội dung và cấu trúc cuốn sách.
Tác giả cũng xin chân thành cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, Giáo sư Trần Hữu Dũng (Đại học Wright, Ohio), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason, Virginia), nhà sử học Sophie Quinn Judge (Đại học Temple), Giáo sư Shawn McHale (Đại học George Washington), Giáo sư Hồ Huệ Tâm (Đại học Harvard), Giáo sư Peter Zinoman (Đại học UC Berkeley), Giáo sư Ngô Thanh Nhàn (Đại học New York) đã đọc và tận tình góp ý để tác giả hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này.
Cuốn sách cũng không thể hoàn thành nếu không có nhóm giúp việc gồm một số trí thức trẻ, một số sinh viên mà trong lần xuất bản này tác giả chưa thể nêu tên họ. Trong quá trình thực hiện cuốn sách tác giả đã luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ của những người bạn như Nguyễn Thanh Toại, Đặng Cao Thắng, Lê Hải, Đỗ Trung Quân, Hà Tân Cương, Nguyễn Quang Lập, Đặng Tâm Chánh, Bùi Nguyên Cẩm Ly, Trần Minh Khôi, Võ Văn Điểm, Huỳnh Kim Phụng, Đào Ngọc Lâm, Bùi Đức Thịnh, Nguyễn Văn Diễn, B.V.D, N.T.H, Nguyễn Đức Quang, Trần Ngọc Phong, Mai Kỳ, Xuân Bình, Nguyễn Hải Phong, Lê Thị Hoàng Anh, Phùng Văn Vinh, Trần Minh Triết …
Tác giả hy vọng tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành để hoàn chỉnh cuốn sách này trong những lần xuất bản tới.

Bên thắng cuộc Huy Đức Tập I. Giải Phóng Mấy lời tác giả

Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm.
*****
Published by
OsinBook∘2012
Copyright 2012 by Huy Đức & OsinBook∘2012
ISBN: 978-1-4675-5790-0
Huy Đức & OsinBook∘2012 giữ bản quyền
Thiết kế bìa và trình bày:
Phùng Văn Vinh & Trần Minh Triết
Bản giấy in tại California, USA
ISBN: 978-1-4675-5791-7
Phát hành toàn cầu
All rights reserved. Without limiting the rights under copyright reserved above, no part of this publication may be reproduced, stored in or introduced into a retrieval system, or transmitted, in any form, or by any means (electronic, mechanical, photocopying, recording, or otherwise) without the prior written permission of both the copyright owner and the above publisher of this book.
Bảo lưu toàn bản quyền. Không in lại, sao chép, tái bản, phân phát, một phần hay toàn bộ cuốn sách, dưới dạng điện tử hay giấy, khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của tác giả và nhà xuất bản.
Smashwords Edition License Notes
This ebook is licensed for your personal use only. This ebook may not be re-sold or given away to other people. If you would like to share this book with another person, please purchase an additional copy for each person you share it with. If you are reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use only, then you should return to Smashwords.com and purchase your own copy.
Thank you for respecting the author’s work.
Chỉ được phép sử dụng sách điện tử này cho mục đích cá nhân. Không được bán lại hay chuyển cho người khác. Nếu bạn đọc muốn chia sẻ cuốn sách này cho người khác, xin mua thêm một ấn bản cho từng người bạn muốn chia sẻ với. Nếu bạn đọc cuốn sách này và không mua nó, hoặc không mua cho riêng bạn, thì bạn nên trở lại Smashwords để mua ấn bản của mình. Chân thành cám ơn bạn đọc đã tôn trọng quyền sở hữu bản quyền của tác giả.
xxx
Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết.” – Trần Hữu Dũng, Đại học Wright, Ohio, USA
Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay.” - Nguyên Ngọc, Đại học Phan Châu Trinh, Hội An, Việt Nam
Bên Thắng Cuộc là tác phẩm ‘thực’ nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay.” – Đinh Quang Anh Thái, Nhật báo Người Việt, California, USA
Cuốn sách phân tích tình hình Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có. Nó là một kho tàng dữ liệu quý báu, có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.” – Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, Virginia, USA
"Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự" – Chu Hảo, Nhà Xuất bản Tri Thức, Hà Nội, Việt Nam
*
*******
Thương yêu tặng Mỹ Đức
và hai con Thạch Thảo, Đức Trung
Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
Bên nào thắng thì nhân dân đều bại
Nguyễn Duy
Huy ĐứcCuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy, thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày1, Thép Đã Tôi Thế Đấy2. Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.
Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam, rồi chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.
Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong3, một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù đã kiệt quệ sau tám năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy.
Mùa hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ, gồm Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Tuấn Khanh, Huỳnh Thanh Diệu, Huy Đức. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.
Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Không ai để ý đến câu nói này của Tuấn Khanh, nhưng tôi lại bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.
Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975 đã trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”4, như “Z30”5 cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ Chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 – ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế, chính trị học, và xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong vòng ba năm, từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012, tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có năm nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra, và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.

VIỆT NAM: CHÍNH PHỦ DÙNG ‘DƯ LUẬN VIÊN’ ĐỂ ĐẤU VỚI BLOGGER

Chính quyền Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc tranh thủ dư luận dù họ đã và đang phá website đối kháng, đàn áp các blogger và các nhà báo tự do, và nay họ tin tưởng rằng vũ khí mới nhất là một đội quân dư luận viên hùng hậu có thể lái dư luận về hướng thuận lợi cho họ.
Nhà báo tự do Trương Duy Nhất cho biết lần đầu tiên ông biết về đội quân dư luận viên (DLV) là lúc ông Hồ Quang Lợi, trưởng ban tuyên giáo thành phố Hà Nội tiết lộ vào đầu năm 2013. Tuy nhiên ông Nhất “không ngạc nhiên về điều này”.
Dư luận viên là ai?
Sau Hà Nội, quan chức thành phố Đà Nẵng cũng tiết lộ họ đã thành lập DLV từ năm 2010. Tại cuộc họp triển khai nhiệm vụ 6 tháng đầu năm 2013, ông Mai Mộng Tưởng, phó ban tuyên giáo Đà Nẵng chỉ thị cho các DLV dưới quyền “hãy nắm bắt về việc góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp, theo dõi chuyển biến thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.”
“Dù không tuyên bố thì lâu nay người ta cũng đã làm rồi. Buồn cười vì hóa ra đầu óc mấy ông ngồi đó nghĩ toàn chuyện vớ vẩn, bá láp, bá xàm như vậy,” ông Nhất nói.
Ông Nhất cho biết: “Chưa gặp người nào dám nhận là DLV ngoài đời, mà cũng chưa thấy ai công khai danh tính rõ ràng trong các bình luận trên mạng. Thành viên của đội ngũ này chỉ thường dùng các tên giả. Tuy nhiên qua các lần làm việc với công an, thanh tra sở thông tin truyền thông, họ thừa nhận có đưa phát biểu (comment) vào các trang cá nhân, bài viết của tôi.”
Vậy ông Nhất ứng xử như thế nào? “Chỉ cái phát biểu nào đàng hoàng mới để. Cái nào nói tào lao, kích động, xuyên tạc, v.v… thì tôi xóa hết,” ông Nhất nói.
Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) nhận định: “Chủ trương kiểm soát thông tin cũng như ý tưởng sử dụng DLV có nguồn gốc rất lâu từ tuyên giáo các cấp. Nếu trước đây họ chỉ có tuyên truyền qua sách, báo, miệng, thì giờ đây trước thông tin đa chiều trên internet, họ bị buộc phải tăng cường thêm lực lượng mới để tuyên truyền trên mạng.”
Mẹ Nấm kể: “Chỉ gặp DLV qua các bài viết, bình luận, nhưng khi tranh luận đuối lý các bạn DLV thường ngụy biện, đi vào đả kích cá nhân tôi như không lo chăm con, không lo coi sóc quán nước mía, nhận tiền từ nước ngoài. Có lẽ các bạn DLV nghĩ mình cũng như các bạn – được trả tiền để làm việc này.”
Bà Bùi Thị Minh Hằng (blogger Bùi Hằng) khẳng định: “Trong giai đoạn này nhà nước đã thất bại về tuyên truyền trên các trang mạng xã hội nước ngoài như Facebook, Twitter, và các trang blog có hoạt động tại Việt Nam nên bây giờ họ tuyên bố tăng cường lực lượng DLV là điều dễ hiểu.”
Tại hội nghị tổng kết công tác tuyên truyền miệng năm 2012, chính phủ Việt Nam đã đưa ra con số gần 80 nghìn ‘tuyên truyền viên miệng’ để làm DLV. Đó là một con số lớn và khó được kiểm chứng vì DLV không hẳn là một nghề chuyên môn mới trong bộ máy tuyên truyền. Họ có thể là những cán bộ an ninh và truyền thông hiện dịch được biệt phái để làm công tác trên mạng.
Bút chiến hay tranh luận?
05/05/2010, tại một hội nghị toàn quốc trung tướng công an Vũ Hải Triều, khoe rằng bộ phận kỹ thuật của công an đã ‘phá sập 300 báo mạng và blog cá nhân xấu”.
09/12/2012, Hồ Quang Lợi, trưởng Ban Tuyên Giáo Thành ủy Hà Nội tại Hội Nghị Tuyên Giáo Toàn Quốc cho hay Hà Nội đã thành lập một đội ngũ “tuyên truyền miệng” với 900 “dư luận viên”, “tổ chức nhóm chuyên gia bút chiến trên Internet, mở hơn 400 tài khoản trên mạng”. Ông Lợi nói: “DLV tham gia bút chiến trên internet chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch”.
Tuy nhiên các công dân mạng bị gọi ‘lề trái’ không nghĩ như ông Lợi.
“Tôi không nghĩ là có bút chiến giữa blogger tự do và DLV và chúng tôi cũng không muốn chiến đấu kiểu này,” blogger Mẹ Nấm phát biểu. Blogger này nói tiếp: “Nếu có thì đó là một cuộc chiến không cân sức: họ ăn lương để làm việc ấy; trong kho đó blogger và nhà báo tự do thì chỉ viết theo suy nghĩ của mình, và còn làm việc khác để sinh sống, tức là họ không xem việc lên mạng là một cái nghề. Và cuộc chiến buộc chúng tôi phải bảo vệ lý lẽ của mình. Các bạn DLV có quyền định hướng dư luận theo cách của họ, nhưng đây là suy nghĩ của tôi và xã hội sẽ nhìn thấy có những người suy nghĩ khác với cái dư luận mà chính quyền muốn DLV bảo vệ.”
Không đồng ý với từ ‘bút chiến’, nhà báo Duy Nhất cho rằng xã hội cần những trao đổi, đối thoại, tranh luận. Ông nói gần đây có các vấn đề nóng mà trước đây bị báo chí dìm thì nay lại được các trang cá nhân đưa ra tranh luận lại. “Bản chất của tranh luận là dần tiếp cận sự thật, chân lý. Nhưng tại sao không tranh luận công khai, đàng hoàng đi? Nếu vấn đề tôi viết ra đúng hay sai, anh cứ tranh luận với tôi rõ ràng. danh có chính thì ngôn mới thuận được. Nói kiểu núp bóng giấu tên này là tầm bậy tầm bạ không đáng quan tâm,” ông Nhất nói.
Blogger Bùi Hằng nói: “Tôi mời tất cả các DLV, các blogger của các phe phái, cùng tranh luận và dành sự phán xét đúng sai cho độc giả.”
DLV có làm không công?
Dù không nói rõ số DLV bao nhiêu người, số tiền phải bỏ ra bao nhiêu, nhưng cuối tháng 12/2012, UBND thành phố Hồ Chí Minh thông báo sẽ trả tiền phụ cấp 0,3 mức lương cho các cộng tác viên dư luận xã hội.
Tại hội nghị Tổng kết công tác tuyên truyền miệng 2012, tỉnh Lào Cai cho biết địa phương này trả 0,1 mức lương cơ bản cho DLV cấp xã phường. Nhà báo Duy Nhất nói ông cảm thấy “buồn cười vì tốn tiền bạc cho việc này.”
Một blogger có tiếng nhưng không muốn nêu tên nhận định: “Chẳng ai làm không công cho công việc này, nếu không có tiền trực tiếp thì cũng có các lợi ích khác. Nhưng dù làm DLV vì tiền hay vì lý tưởng thì nó là công việc khá an toàn vì họ không lo bị chế độ làm khó dễ, không sợ bị bỏ tù, vì họ được chính quyền bảo kê”. Blogger này cho rằng: “DLV là cái lỗi của ban tuyên giáo. Nó là thêm một cái cớ cho công chúng xỉ vả chính quyền.”
DLV có hiệu quả?
Blogger Lê Diễn Đức cho rằng sách lược dùng tin tặc để đánh phá các trang như Bauxite, Dân Làm Báo, Dòng Chúa Cứu Thế, Ðàn Chim Việt, Anh Ba Sàm, v.v… dường như không đạt được mục tiêu vì các trang web bị tấn công đã có thể phục hồi nhanh chóng hoặc cho ra trang mới.
Trong khi đó việc dùng DLV cũng có vẽ như không mang lại kết quả mà nhà nước mong muốn. “Đa phần dư luận viên kiến thức rất kém, không có khả năng phản biện, khi tranh luận thường sử dụng các ngôn ngữ dung tục, cố tình quậy phá. Bản mặt của chúng không thể tồn tại được ở những trang tử tế, đàng hoàng, chúng bị nhận diện và phải tháo chạy,” blogger Lê Diễn Đức viết.
Thêm vào đó, dù nhà nước Việt Nam nắm trong tay toàn bộ hệ thống truyền thông Việt Nam, họ cảm thấy dư luận đang ngày càng vượt xa tầm kiểm soát của họ.
Thứ trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông Ðỗ Quý Doãn than vãn trên báo Lao Ðộng (10/01/2012): “Tại sao chúng ta có một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ, ngành. Có tới 17 ngàn nhà báo, trong đó có nhiều cây bút có đủ khả năng làm lay động bạn đọc mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá nhân?” Ông tự kết luận: “Báo chí đang đánh mất niềm tin của bạn đọc.”

Tự Kiểm Điểm, Tự Phê Bình, Tự Tha Tội Cho Nhau và Mô Hình Kinh Tế Chỉ Đạo Thị Trường

Trong thập niên gần đây, sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cùng với những khó khăn kinh tế của các nước Âu Mỹ đã làm nhiều người nghi ngờ ưu thế của mô hình kinh tế thị trường của các nước Âu Mỹ. Thậm chí nhiều người còn đề nghị nên dùng mô hình kinh tế thị trường dưới sự chỉ đạo của nhà nước như mô hình Trung Quốc và Việt Nam để làm gương cho các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên gần đây chúng ta bắt đầu thấy nhiều khuyết điểm trầm trọng của mô hình chỉ đạo thị trường này: băng hoại môi trường, thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, và nạn chảy máu chất xám lẫn chất xanh (tiền). Điển hình là tờ nhật báo New York Times tuần qua có đăng một bài phóng sự về gia đình Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bão. Gia đình này đã tích tụ một tài sản khổng lồ lên đến
2.7 tỷ đôla. Làm sao gia đình Ôn Gia Bão đã từ nghèo khó mà trở nên một trong những gia đình giàu nhất Trung Quốc trong vòng 10 năm? Bài báo này đã hé lộ cho thế giới biết một góc về sự trầm trọng của nạn tham nhũng ở Trung Quốc. Xem link : http://www.nytimes.com/2012/10/26/business/global/family-of-wen-jiabao-holds-a-hidden-fortune-in-china.html?pagewanted=all&_r=0
Bài báo này đã làm chính quyền Trung Quốc giận dữ. Ho cho chính quyền Mỹ đã cố tình bêu xấu Trung Quốc và đã dùng bức tường lữa để ngăn chận không cho dân chúng Trung Quốc đọc bài báo này.
Blog dưới đây từ tờ Economist đã nói về nạn chiếm đất, lạm phát phi mã, sự suy sụp của các nhà bank và các công ty quốc doanh, tham nhũng ở VN. Bài blog có nói về sự dính dáng của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng với những sì căng đan Asia Commercial Bank và Vinashin ̣thua lỗ đến 4.5 tỷ MK. Tuy nhiên ban lãnh đạo sau khi họp đại hội đảng đã tự kiểm điểm, tự phê bình, và sau đó tự tha tội cho nhau – We forgive us.
Với nạn tham nhũng trầm trọng cùng nhiều khuyết điểm khác, mô hình chỉ đạo thị trường của Trung Quốc và VN khó có thể mang lại phát rriển kinh tế bền vững cho cả hai quốc gia

Vài cảm nghĩ về sự kiện Người Việt tị nạn Lưu Lệ Hằng lãnh giải Kavli và Shaw được mệnh danh là giải Nobel về Thiên Văn cả Tây lẫn Đông

Giải Kavli và Shaw là Nobel về Thiên Văn
Lưu Lệ Hằng, tên Mỹ là Jane Luu, được nhận giải thưởng Kavli cùng Jewitt và Brown,và giải thưởng Shaw cùng Jewitt, do khảo cứu thiên thạch, sao chổi và sự hiện hữu của vành thiên thạch quanh mặt trời mà Kuiper đề án năm 1951.
Giài thưởng Kavli, 1 triệu USD, phát 2 năm một lần cho ba ngành là thiên văn, khoa học nano, và khoa học neuro, do chính vua Na Uy chủ tọa, được mệnh danh là Nobel về các ngành khoa học này vì Nobel không nghĩ tới khi thiết lập giải Nobel. Do Kavli Foundation tại Na Uy tài trợ bắt đầu từ năm 2008, giải Kavli được sự hỗ trợ lựa chọn bởi 5 viện hàn lâm quốc tế: Trung Quốc, Pháp, Đức, Mỹ, và Na Uy. (xem Wikipedia về Kavli).
Giải thưởng Shaw, đáng giá 1 triệu USD, do Shaw Foundation thành lập năm 2002 tại Hong Kong, phát mỗi năm một lần, được mệnh danh là Nobel Phương Đông, vinh danh những nhà khoa học còn sống đã có đóng góp đáng kể vào các ngành thiên văn, sinh học, và toán học. Như vậy là về toán học, nó to hơn giải Fields là giải 15 ngàn USD phát bốn năm một lần cho các thiên tài toán học dưới 40 tuổi. Sự lựa chọn người trúng giải là do một hội đồng thay đổi hằng năm và gồm các khoa học gia chuyên môn nổi tiếng. Thống đốc Hong Kong (tự trị) là người chủ tọa lễ phát giải ngày 17 tháng 9 năm 2012. (Xem Wikipedia về Shaw và Fields.)

Lưu Lệ Hằng là người Việt gốc Bắc, sinh năm 1963 tại Saigon, tị nạn qua Mỹ năm 1975 khi mới 11-12 tuổi. Theo tiểu sử do mình tự viết, Hằng có một đời sống khá bình thường ngay trong thời buổi chiến tranh, cha làm thông dịch viên tiếng Anh và tiếng Pháp, mẹ ở nhà, sống tại Saigon có nhiều bà con họ hàng, học trường Pháp, không có khái niệm gì về chiến tranh ngay cho tới khi phải di tản với một xách tay nhỏ vào tháng 4 năm 1975. Tới Mỹ, Hằng được người bảo trợ đặt tên cho dễ nhớ là Jane Luu, sống 1 năm tại tiểu bang Kentucky với mẹ, chị và hai em nhờ người dì đã có cơ ngơi sẵn tại Mỹ che chở trong khi cha ở lại California đi học và tìm việc. Khi cha của Hằng có việc, cả nhà tới ở Ventura ngoại ô Los Angeles, cha làm kế toán, mẹ làm việc lắp ráp điện tử.
Ngày 4 tháng 9 nàm 2012, Lưu Lệ Hằng lãnh giải Kavli 1` triệu USD từ vua Na Uy Harald chia với giáo sư Jewitt và giáo sư Brown.. Giải Kavli được mệnh danh là Nobel về thiên văn tại chính quê hương của Nobel là vùng Thụy Điển-Na Uy-Đan Mạch.
Hằng học tiếng Anh trôi chẩy từ năm đầu, theo học các lớp trung học một cách thoải mái và cho là quá dễ, được hiệu trưởng “mời” nhẩy lớp 8 lên lớp 9, và khi đậu ra trường lớp 12 thì đứng thủ khoa. Với thành tích xuất sắc, Hằng được nhiều trường giỏi nhất ở Mỹ nhận học, như Princeton, Massachussetts Institute of Technology (MIT), Stanford, và cô đã chọn Stanford (gần San Francisco) vì trường đó cho học bổng nhiều nhất. Ban đầu học ngành kỹ sư cơ khí do cha đề nghị, nhưng sau đổi sang vật lý vì thấy nó căn bản hơn. Sau khi đậu cử nhân, Hằng làm việc hè tại Jet Propulsion Laboratory của NASA (National Aeronautics and Space Administration –Cơ quan không gian và vũ trụ Mỹ) và rất ấn tượng với các hình ảnh chi tiết của các hành tinh treo trên tường hành lang. Cô đã quyết định học cao học về thiên văn và nộp đơn xin học tại MIT. Tại đó, Hằng có cơ may gặp giáo sư trẻ tuổi (sinh năm 1958) gốc Anh là David Jewitt, người đang khảo cứu nguồn gốc các thiên thể có chu kỳ ngắn như sao chổi trong thái dương hệ. Với căn bản vững chãi và một ý chí kiên trì, Lưu (nay gọi tên gia đình họ của Hằng cho tương đương với các đồng sự) và Jewitt đã làm việc đêm ngày theo đuổi đề án của nhà thiên văn Hà Lan Kuiper đưa ra từ năm 1951, là mặt trời phải có một vành thiên thạch. Họ có niềm tin là ngoài Pluto không thể chỉ có khoảng không, vì NASA đã dùng vệ tinh IRAS chụp được một vành thiên thạch quanh sao Vega.
Lưu lấy bằng tiến sĩ năm 1990 và đã nổi tiếng về các khảo cứu sao chổi. Năm 1991 hội Thiên Văn Mỹ trao giải thưởng Cannon cho Lưu và đặt tên một thiên thạch do Lưu khảo cứu là Asteroid 5430 Luu. Lưu được nhận làm khảo cứu thiên văn tại Harvard và vẫn tiếp tục công việc khảo cứu vành Kuiper với Jewitt lúc đó đã làm giáo sư tại Hawaii.
Sau 5 năm ròng rã, dùng các phương tiện tại MIT, Harvard, Kitt Peak (Arizona) và Mauna Kea (Hawaii), cùng là nhờ các dụng cụ quan sát nhậy bén mới gọi là CCD (charge-coupled devices), năm 1992 Jewitt và Luu tìm ra được thiên thạch 1992 QB1 đường kính 280 km (bằng 1/8 Pluto) mà họ gọi là Smiley theo tiểu thuyết trinh thám của John LeCarre’. Khám phá này, rồi 20 khám phá thêm sau đó, và cả trăm khám phá khác do cộng đồng thiên văn cộng hưởng, đã chứng minh sự hiện hữu của vành Kuiper, và mở đầu cho một kỷ nguyên mới về khoa học Thái Dương Hệ cùng là thuyết khai thiên lập địa.
Ngày 17 tháng 9, 2012, Lưu Lệ Hằng lãnh giải Shaw tại Hong Kong được mệnh danh là Nobel Phương Đông, chia 1 triệu USD cùng giáo sư Jewitt về thiên văn. Ba người kia lãnh giải về sinh học (Ulrich Hartl và Horwich) và toán (Kontsevich)
Sau khám phá của Jewitt và Luu, Michael Brown (sinh năm 1965) được NASA bảo trợ một chương trình lớn tại Jet Propulsion Laboratory tìm các thiên thạch và hình dung vành Kuiper bằng cách chia không gian làm 10 ngàn ô quan sát. Năm 2005 Brown tìm ra thiên thạch Eris to bằng Pluto (2300 km), khiến Hội Thiên Văn Quốc Tế phải lập lại bảng các hành tinh, chỉ coi Pluto là một Hành Tinh Lùn (Dwarf Planet) như Eris, mà không phải là hành tinh giống Neptune hoặc trái đất. Và người ta biết rằng vành Kuiper có tới cả tỉ thiên thạch mà tổng cộng không nặng quá 6 lần trái đất, trong đó có cả chục ngàn thiên thạch to hơn 100 km. Các thiên thạch (hay thiên sơn) này luân lưu do Neptune (Hải Vương Tinh) điều hành.  Vị nào chuyển động bất thường thì bị hút vào không phận của các hành tinh và trở thành sao chổi tiến sát mặt trời và đôi khi đụng các hành tinh như Jupiter (Thiên Vương Tinh) hoặc sao Hỏa hoặc trái đất. Mới đây vài năm, 5 sao chổi đã đâm vào Jupiter với sức nổ gấp cả triệu lần bom nguyên tử 20 kiloton nổ năm 1945 tại Hiroshima. Lịch sử trái đất đã có nhiều thiên sơn đụng phải, có lần làm mọi sinh vật chết hết vì tro bụi bao trùm khí quyển nhiều năm che lấp ánh sáng mặt trời. Tương lai một cuộc tận thế của loài người như vậy là có xác suất, và người ta đang nghĩ cách đo lường trước và ngăn ngừa bằng cách dùng bom nguyên tử hoặc phương pháp khác để đánh lạc sao chổi đó khi nó trên đường có thể đụng vào trái đất.
Từ năm 1992 tới 2001, Lưu đã khảo cứu và giảng dạy tại Berkeley, Stanford, Harvard, và Leiden (Hà Lan). Từ 2001 tới nay Lưu làm kỹ sư thiết bị tại Lincoln Laboratory của MIT vì không thích không khí ganh đua “ghế” tại các đại học, trong khi đó Lincoln Laboratory có ngân sách của chính phủ khảo cứu các thiết bị phòng ngừa khủng bố.
Lưu chia tiền thưởng Kavli 1 triệu USD với Jewitt và Brown, và chia tiền thưởng Shaw 1 triệu USD với Jewitt. Lưu có chồng tên là Hoogerwerf, một nhà thiên văn người Hà Lan, và một con trai 6 tuổi. Hiện gia đình Lưu sống tại Lexington, Massachusetts, gần đại học Harvard và MIT.
Với hai giải thưởng tầm cỡ Nobel về thiên văn, Lưu có thể sẽ không phải lo về các “tranh giành các ghế” trong đại học nữa (khi bỏ đi làm kỹ sư thiết bị,) mà có thể sẽ là một giáo sư thực thụ tại một đại học có chương trình thiên văn nổi tiếng như Harvard, MIT, Hawaii, Arizona hoặc California Institute of Technology (Caltech).
Vài Cảm Nghĩ về Sự Kiện
Lưu Lệ Hằng trở thành một trong số người Việt đóng góp sáng chói cho khoa học như Ngô Bảo Châu, Võ Đình Tuấn, Nguyễn Hữu Xương, Nguyễn Xuân Vinh, Dương Nguyệt Ánh. Và họ cũng làm người Việt vẻ vang trên trường quốc tế như nhiều thiên tài khác trong các ngành nghệ thuật, chính trị, kinh tế; ví dụ Đặng Thái Sơn, Đinh Đồng Việt, Philip Roesler, Carol Huynh, Thanh Truong (xem Wikipedia về Famous Vietnamese Names). Tôi cảm thấy rất tự hào về người Việt.
Tuy nhiên, lòng tự hào của tôi bị hãm lại bởi một thực tế rất phũ phàng. Ta có thực sự nổi trội trên thế giới không? Các nước khác cùng một quá khứ giống ta như Nhật, Hàn, Đài Loan, Singapore… có được những thành tích đáng phục đó không? Tại sao với mỗi tin thành công của một người Việt lai có cả trăm tin thất bại-đau khổ của người Việt khác? Tại sao phần lớn các người thành công đột trội trên lại là nhờ học và làm việc tại ngoại quốc và sẽ không bao giờ trở lại làm việc toàn thời gian tại Việt Nam?
Nhìn vào các thống kê của các ngành nghề, tôi thấy người Việt cũng chẳng hơn ai, còn thua nhiều dân tộc khác là đằng khác, nhưng cái thua này –ít giải thưởng, ít sáng chế, ít giầu có—là vì một lý do rất dễ hiểu: Cơ chế và lãnh đạo đất nước Việt Nam tồi quá, không những ngày nay mà trong cả chiều dài của lịch sử. Lịch sử của Việt Nam là cả ngàn năm chiến tranh chống ngoại xâm và huynh đệ tương tàn, chứ không phải là một lịch sử hòa bình gây hạnh phúc cho người dân. Lãnh đạo ta làm những việc mà họ chưa hề được học đến nơi đến chốn theo chiều hướng văn minh, và họ không có đủ trí huệ để không ham quyền cố vị và chiêu tụ người tài làm tốt cho xã hội. Cơ chế của ta cóp nhặt mỗi nơi một chút nhưng bắt chước hoài cũng không thông rồi còn nói làm “theo cách Việt Nam”. Hèn chi hỏi 1000 người trong nước có hạnh phúc sung sướng không thì phải có đến trên 900 người có phàn nàn này nọ. Hèn chi học sinh ra trường ít có việc làm để thực thi những điều đã học. Và hèn chi muốn học và thành nghề tới nơi tới chốn thì phải ra nước ngoài, Cũng hèn chi những người đã thành đạt tại nước ngoài thì ít muốn về Việt Nam làm việc vì không những lương ít, phương tiện ít, mà còn gặp phải những cản trở vô lý về cơ chế.
Tôi thấy có tâm trạng giống như Phan Chu Trinh 100 năm về trước:
Người mình đã vụng về trăm thức,
Lại khoe rằng “sĩ nhất tứ dân”;
Người khanh tướng, kẻ tấn thân,
Trăm nghề hỏi có trong thân nghề nào?
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân…

Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích (hahahahaha. yeah your're right hahahaha)

Nguyễn Thành Công

Tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Bắc, vào quân đội, ra chiến trường nhưng không tham gia đơn vị chiến đấu mà ở đơn vị hậu cần. Vì vậy tôi chưa hề bắn súng vào bất kỳ ai. Tuy nhiên, trong một đợt ném bom của không quân Mỹ tôi bị thương, không nặng lắm, được đi điều trị, khi trở lại đơn vị thì miền Nam đã giải phóng. Tóm lại, cuộc sống của tôi cũng bình thường như nhiều người khác. Vào mấy năm gần đây, gia đình tôi nằm trong diện phải giải phóng mặt bằng. Nói thế chắc các bạn biết rồi. Tôi gia nhập vào nhóm những người được gọi là dân oan, thường xuyên đến trước cổng cơ quan nhà nước đòi giải quyết quyền lợi mà chưa biết đến bao giờ mới xong.

Ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, tôi làm quen với nhiều người dân oan khác, tìm hiểu hoàn cảnh của họ. Hóa ra không phải chỉ có gia đình tôi, quê tôi đang bị nhà nước cướp đất mà khắp nơi trong nước đang diễn ra tình trạng cướp đất, ngày càng tàn khốc, ngày càng trắng trợn. Tôi cùng với nhân dân bị oan khuất bắt đầu đấu tranh, giúp đỡ lẫn nhau trong cơn hoạn nạn. Thế rồi những người bạn dân oan của tôi hướng dẫn tôi sử dụng mạng vi tính. Cả một chân trời thông tin ào đến với tôi. Từ mạng, tôi biết có nhiều người đang đấu tranh đòi quyền dân chủ, tự do cho đất nước. Cuộc đấu tranh của dân oan được các bạn ở hải ngoại ủng hộ trên mạng. Quả thật chúng tôi rất mừng. Tôi còn biết thêm nhiều bạn trước đây đã vượt biển, chịu bao sóng gió, nguy hiểm để đến được một nước nào đó. Đến nay những người ấy đếu thành đạt, sống ở nước ngoài mà vẫn đau đáu nhìn về quê hương. Nhiều bạn lên tiếng đòi dân chủ cho nhân dân, tự do cho tổ quốc. Tuy nhiên, đọc thông tin trên mạng có một số bạn, nhiều người gọi là "chống cộng quá khích" tôi rất lấy làm tiếc. Tôi nghĩ tâm nguyện của các bạn chống cộng quá khích chỉ muốn mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước chứ không hề định cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhưng các bạn nóng lòng sốt ruột, đặt ra những yêu cầu "quá khích", nếu ai không đồng ý thì các bạn tập trung "ném đá" dữ dội, vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh.

Có một lần vào Huế, tôi nói chuyện với một người lái xe ôm. Tôi hỏi: Trước năm 75 anh làm nghề gì? Trả lời: Tôi đi lính ngụy! Tôi nói: Anh không nên nói thế, phải nói là gia nhập quân lực Việt Nam cộng hòa oai hùng. Oai hùng chứ không anh hùng. Một quân đội vứt súng chạy như vịt thì không thể gọi là anh hùng, tuy trong đó cũng có những người đáng gọi là anh hùng. Mà tại sao các anh lại vứt súng bỏ chạy thế? Trả lời: Vì chỉ huy chạy hết rồi còn đâu! Tôi nói: Không nói thế được đâu, nếu chỉ huy chạy thì sao anh không lên nắm quyền chỉ huy để tiếp tục chiến đấu? Phải xử bắn tại chỗ những tên chỉ huy hèn nhát, rồi vừa chiến đấu vừa binh vận, thuyết phục chúng tôi trở về bảo vệ đồng bào miền Nam mới phải chứ? Đến đây thì người cựu binh quân lực Việt Nam cộng hòa im bặt, không trả lời được nữa. Tôi hỏi tiếp: Anh có là sĩ quan không? Trả lời: Sĩ quan cấp thấp. Lại hỏi: Thế tại sao năm 75 anh không rút súng tự xử để bảo vệ lý tưởng? Lại im lặng.

Tôi hỏi tiếp: Các anh có biết vì sao mình thua không? Trả lời: Vì các anh giỏi hơn! Tôi nói: Không phải, anh nhầm lớn, chúng tôi không giỏi hơn các anh. Tôi là một cựu chiến binh miền Bắc, được đảng và nhà nước đào tạo, giáo dục, khi vào miền Nam tôi thấy trình độ chung của chúng tôi kém các anh nhiều. Các anh có học hơn, sống với nhau có tình, ứng xử rất có văn hóa. Chẳng hạn khi vào thành phố hỏi đường, anh em miền Nam chỉ đường nhiệt tình, vui vẻ, dễ mến, mặc dù lúc đầu chúng tôi khó chịu vì có anh để tóc dài. Lại trả lời: Vì bên giải phóng được viện trợ nhiều súng đạn hơn! Tôi nói: Anh lại nhầm, lúc ở chiến trường chúng tôi không nhiều súng đạn hơn các anh. Lại trả lời: Vì miền Nam bị Mỹ bỏ rơi, còn miền Bắc được Liên Xô, Trung Cộng chi viện. Tôi nói: Anh vẫn nhầm, thế anh có biết năm 1972 tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc, báo Nhân dân ở Hà Nội đăng bài xã luận cho rằng bị phản bội không? Năm 1972 Trung cộng bắt tay với Mỹ, bỏ rơi Việt Nam. Nói bị bỏ rơi thì chính miền Bắc mới là người bị bỏ rơi. Tôi nói thêm: Khi QĐND Việt Nam tiến đến Xuân Lộc, anh có biết là các chiến sĩ quân lực VNCH đã chiến đấu kiên cường tới mức QĐND VN phải né tránh đi vòng đường khác không? Điều đó nói lên rằng một bộ phận quân lực VNCH (đáng tiếc cho các bạn, chỉ có một bộ phận chứ không phải là toàn quân) đã chiến đấu xứng đáng là người lính trên chiến trường. Nếu toàn thể quân lực VNCH chiến đấu như thế thì hôm nay các bạn không phải hối hận, những người như chúng tôi không phải lấy làm tiếc cho các bạn, cũng là cho chính chúng tôi. Tổ quốc Việt Nam cũng khác chứ không phải như hôm nay!

Nhiều khi tôi tự hỏi: Vì sao quân lực VNCH lại thua trận và sụp đổ hoàn toàn được nhỉ? Khi người Mỹ rút quân, đã để lại cho miền Nam một số lượng vũ khí khổng lồ, rất hiện đại. Chẳng hạn, theo đài Sài Gòn lúc ấy, không quân VNCH đúng thứ ba trên thế giới về số lượng. QĐND VN không được viện trợ khẩn cấp, chỉ dùng những thứ đã được viện trợ từ trước, tức là không hơn gì về vũ khí. Ngày hôm nay rất nhiều bạn cựu chiến binh quân lực VNCH đổ lỗi cho việc thiếu vũ khí, rồi bị Mỹ bỏ rơi... tôi thấy không thuyết phục. Nếu không chỉ đúng nguyên nhân của thất bại thì các bạn không rút được kinh nghiệm và sẽ lại tiếp tục thất bại thôi.

Vậy vì sao quân lực VNCH thất bại, nói rộng hơn vì sao chính quyền VNCH thất bại?

Chính quyền VNCH thất bại vì thiếu yếu tố căn bản quyết định sự tồn tại của nó, cũng là yếu tố quyết định thắng bại của mọi cuộc chiến tranh: yếu tố nhân dân. Bây giờ các bạn thử nhìn lại cuộc chiến từ đầu. Vừa lên làm tổng thống VNCH ông Ngô Đình Diệm đã hô hào "Bắc tiến". Thậm chí nhà thơ Vũ Hoàng Chương còn làm thơ cổ vũ: Hẹn một ngày mai về cố đô / Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ... Sau đó ông Diệm tung nhiều toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc nhằm gây dựng lực lượng. Nhưng tất cả các toán gián điệp biệt kích đều bị bắt, không một toán nào đứng chân trên miền Bắc được. Thậm chí công an miền Bắc còn lập chuyên án, tổ chức bắt giữ các toán mới thâm nhập để thụ vũ khí, vật dụng...Ngược lại, nhiều tốp cán bộ miền Bắc trở vào Nam, xây dựng các khu căn cứ để nhận vũ khí từ ngoài Bắc chuyển vào, phát động chiến tranh du kích. Tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm thất bại trong việc thâm nhập miền Bắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại thắng lợi trong việc cử cán bộ thâm nhập miền Nam. Đấy là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác tốt yếu tố nhân dân. Đất nước nào thì nhân dân cũng là tập thể có nhiều thành phần. Có bộ phận nhân dân luôn ủng hộ chính quyền, có bộ phận khác thì chống chính quyền, và có bộ phận chỉ biết làm ăn, không tham gia vào các phong trào chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã khai thác sự ủng hộ của bộ phận nhân dân ủng hộ ông ngay tại miền Nam, vì vậy tạo dựng được các căn cứ để chuyển quân từ Bắc vào Nam tiến công đánh đổ chính quyền VNCH. Vào đầu năm 1975 QĐND VN có thể đưa xe tăng tiến vào các thành phố lớn ở miền Nam. Thế xăng ở đâu để cấp cho xe tăng? Các bạn cứ hình dung công binh miền Bắc đã lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu vào sâu trong đất miền Nam, áp sát ngay các thành phố. Vì sao công binh miền Bắc làm được điều đó? Vẫn là yếu tố nhân dân. Không có nhân dân, QĐND VN không đủ hậu cần cho cuộc tiến công, đương nhiên sẽ không có cái ngày 30/4/1975. Suôt cả cuộc chiến, quân lực VNCH có thể tấn công vào Căm-pu-chia, sang Lào nhưng chưa bao giờ tấn công ra miền Bắc. Vì sao vậy? Nếu tiến công ra Bắc để ngăn chặn chiến tranh từ gốc của nó thì sao? Các tướng lĩnh quân lực VNCH cho rằng quân miền Bắc xuất phát từ Căm-pu-chia tiến vào miền Nam nên tấn công sang để ngăn chặn từ xa, thế thì tại sao không tấn công tận gốc là miền Bắc? Lý do đơn giản vì nếu đổ quân ra Bắc thì chắc chắn thất bại. Kinh nghiệm cho thấy ngay việc tung các toán gián điệp biệt kích ra cũng không thành công, lấy cơ sở nào để nói tiến ra Bắc thắng lợi. Chúng ta lại thấy yếu tố nhân dân quyết định thắng bại trong cuộc chiến. Tôi có thể nói thêm: Tháng 4/1975, khi quân giải phóng tiến vào, người dân ở thành phố miền Trung bỏ chạy về phía Nam. Nếu giả định không phải là quân giải phóng tiến vào Nam mà là quân lực VNCH tiến ra Bắc thi cái gì sẽ xẩy ra? Chắc chắn nhân dân miền Bắc sẽ tiến hành chiến tranh du kích tại những vùng quân lực VNCH chiếm được. Nhân dân sẽ không bỏ chạy đâu, đó chính là nét khác biệt với tình hình ở miền Nam.

Sau ngày 30/4/1975, chính quyền cộng sản bắt đầu thực hiện các chính sách cải tạo xã hội. Bản chất các chính sách này là sai, không phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Nền kinh tế xuống dốc làm nhân dân cả nước sống trong đau khổ triền miên. Chính sách đổi mới nửa vời tuy có làm đời sống thay đổi chút ít nhựng Việt Nam vẫn ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Đến lúc toàn khối XHCN Đông Âu sụp đổ thì đảng cộng sản Việt Nam mất chỗ dựa chính trị, bí bách phải bám vào Trung Quốc. Đây là chỉ dấu cho chúng ta biết các nhóm lợi ích điều khiển đảng cộng sản đã tách khỏi nhân dân. Kể từ đó các nhóm lợi ích giành giật nhau quyền lãnh đạo, chà đạp lên toàn thể nhân dân, vơ vét biến của chung thành của riêng nhóm lợi ích. Biểu hiện bề mặt của chuyện này là các chính sách cướp đất, rửa vàng... Nhóm lợi ích đã trở thành giặc nội xâm tàn bạo nhất trong lịch sử 4000 năm dựng nước của dân tộc ta. Có áp bức thì có đấu tranh. Nhân dân bị áp bức nhiều tỉnh thành đấu tranh, nổi bật nhất là chống cướp đất. Cuộc đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là dân oan toàn quốc đã và đang thức tỉnh ngay cả những đảng viên cộng sản lão thành, có nhiều năm cống hiến cho đảng. Đây là cuộc đấu tranh mà một bên là các nhóm lợi ích trong đảng cộng sản Việt Nam, một bên là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên trung kiên của đảng. Chúng ta cần đoàn kết toàn bộ những người yêu nước, yêu nhân dân, không kể đến quá khứ của họ. Những đảng viên "trung kiên", "chân chính" của đảng cộng sản, nếu đứng về phía nhân dân thì cần được hoan nghênh, ủng hộ. Không nên đề ra những yêu cầu quá khích cho bất cứ ai, nhằm đoàn kết rộng rãi nhất với mọi người. Chúng ta đấu tranh không phải để "xả giận" cho thất bại trước đây, không phải để "trả thù" kẻ áp bức chúng ta, cho dù những kẻ áp bức ấy thực sự mất hết tính người. Chúng ta đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội dân sự trên nước Việt Nam này, ở đó ai cũng được tự do, bình đẳng trước pháp luật, được quyền sống và mưu cầu hạnh phúc.

Tôi có lúc đã ngưỡng mộ, thán phục một số người chống cộng như Nguyễn Khoa Nam, Lý Tống... Nghe tin Lý Tống cưỡi lên máy bay, rải truyền đơn giữa Sài Gòn tôi hết sức thán phục. Đấy là hành động anh hùng giữa đời thường. Nhưng khi nghe chuyện Lý Tống xả thuốc mê vào ca sĩ Việt cộng trên sân khấu thì hình ảnh Lý Tống đã chết trong tôi. Lý Tống anh hùng đã trở thành Lý Tống côn đồ, vô văn hóa. Người ta không thể chống bọn vô văn hóa bằng hành động vô văn hóa, thiểu năng trí tuệ. Nhiều trang mạng ở nước ngoài dùng những từ ngữ như "bưng bô cộng sản" tự làm xấu đi hình ảnh những anh hùng chống cộng trong mắt tôi (ăn nói kiểu gì mà... mất vệ sinh thế?). Vậy thật ra các bạn là ai? Các bạn là những người anh hùng lỡ vận muốn cứu nhân dân đang chìm trong ách thống trị tàn bạo của nhóm lợi ích trong đảng cộng sản hay các bạn chỉ là đám đầu gấu bị mất quyền lợi muốn chiếm lại vị trí ăn trên ngồi trốc trước kia? Các cụ ta dạy: Người thanh ăn nói cũng thanh, các bạn hãy tỏ ra là những người hơn hẳn về văn hóa, có đũng khí, thông minh nhưng chưa gặp vận. Bây giờ là lúc vận nước đang đến, các bạn hãy dùng kinh nghiệm, khả năng của mình để giúp nhân dân vượt qua cơn bĩ cực, tên tuổi các bạn sẽ được người sau mãi mãi nhớ đến, biết ơn.

Tôi nhớ đến đêm 23/4/2012. Đấy là đêm mà nhiều anh em chúng tôi đã đến cánh đồng huyện Văn Giang, Hưng Yên, cùng nhân dân đốt lửa chờ đám giặc nội xâm đến cướp đất. Có người ở ngay trên cánh đồng với nhân dân, có nhóm "phục kích" ở xã bên, nếu giặc nội xâm cướp đất ban đêm thì sẽ chi viện nhân dân bằng đòn đánh úp từ phía sau lưng chúng. Chúng tôi là cựu chiến binh, có người là biệt động mà. Rồi chúng tôi bàn đi bàn lại: Có dùng vũ khí chống cưỡng chế hay không? Vì là các cựu chiến binh, nếu cần vũ khí thì chúng tôi sẽ có vũ khí. Nếu dùng vũ khí nghĩa là có người chết, nghĩa là sẽ có đàn áp khốc liệt, phần thiệt sẽ thuộc về nhân dân. Đến tận lúc trời mờ sáng mới đi đến quyết định: Đấu tranh hợp pháp, bảo toàn sinh mạng cho cả hai bên, bên bị cưỡng chế và bên đi cưỡng chế. Cần phải tận dụng tất cả tiếng nói của nhân dân, của các đảng viên cộng sản còn lương tri để chặn bàn tay tội ác của nhóm lợi ích tại Văn Giang. Để xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh, chúng ta phải học theo cụ Nguyễn Trãi: Dùng đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Đất nước đang trong những năm tháng khó khăn, rất cần sự hỗ trợ từ nhiều phía, và tôi tin các bạn là những người đại nghĩa, chí nhân, sẽ có phương thức hiệu quả giúp nhân dân trong lúc khó khăn này.

Đại diện 5 tôn giáo cùng ra tuyên bố chung về sửa đổi Hiến pháp

Hôm 1/5, đại diện các chức sắc của 5 tôn giáo là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, Công Giáo, Tin Lành - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ, Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy đã cùng nhau ra Tuyên Bố Chung về việc sửa đổi Hiến pháp 1992.

Nội dung bản Tuyên Bố Chung nhấn mạnh đến 8 điểm:
1- Do ý kiến nguyện vọng của toàn dân Việt Nam lập nên, tức là phải trưng cầu dân ý, có Liên Hiệp Quốc giám sát.
2- Tránh tất cả mọi sự lệ thuộc vào ngoại bang, nhất là Trung Quốc.
3- Tránh mọi điều xâm phạm đến quyền tự do căn bản của người dân Việt Nam như: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội…
4- Bầu cử Quốc Hội, tất cả các đảng phái đều được tự do ứng cử.
5- Bầu  cử chính quyền do dân cử, dân bỏ phiếu trực tiếp dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc.
6- Bầu cử theo thể chế Dân Chủ Tự Do.
7- Tam Quyền Phân Lập rõ ràng.
8- Xây dựng một nước Việt Nam thật sự Hòa Bình - Trung Lập - Tự Do - Dân Chủ;  Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.
Những người tham gia ký tên đại diện cho 5 tôn giáo tại Việt Nam gồm có: 
1- Hòa Thượng Thích Không Tánh - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
2- Linh Mục Đinh Hữu Thoại - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
3- Linh Mục Lê Ngọc Thanh - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
4- Mục Sư Nguyễn Hoàng Hoa - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
5- Mục Sư Hồ Hữu Hoàng - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
6- Cụ Lê Quang Liêm - Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy.
7- Chánh Trị Sự Hứa Phi - Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh.
Dưới đây là toàn văn bản Tuyên Bố chung:

30/4: Sự thật nằm sau "Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958"

"... Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là "một chiến thắng vinh quang", ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc..."


A - Lời mở đầu 
Bài viết này không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự kiện "bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS", và cũng không muốn bàn tán thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì đã có quá nhiều luật gia và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5 năm qua trong các trang mạng Internet. 
Bài viết xin phép được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa hơn về vấn đề Biển Đông nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung, trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam nam giữ một vai trò chủ chốt vô cùng quan trọng.
B- Dẫn chứng lịch sử VN xung quanh bức công hàm PVĐ 1958
Những dẫn chứng lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra chỉ có hai văn kiện chính thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google một cách dễ dàng, tôi xin phép được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện tối quan trọng, đó là:
1) Văn kiện 1: Bức công hàm do cố thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc liên quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn kiện này chính ông PVĐ đích thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con dấu chính phủ, và do chính tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người đồng nhiệm phía TQ. Sau do công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in ấn nguyên bản và đăng công khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên không hề thấy báo Nhân Dân chụp ảnh và đăng "bản tuyên bố chủ quyền đất đai và vùng hải phận của TQ" mà công hàm PVĐ đã ghi nhận.

2) Văn kiện 2: Bản tuyên bố chủ quyền quần đảo của TQ, giới hạn hải phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ biển của đất liền (TQ), hải phận rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong vùng Biển Đông (trong đó TQ xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa hơn nữa TQ còn xác định rõ ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng căn bản nối từ đất liền TQ đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của VN). Bản tuyên bố này không mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký người gửi, không con dấu, không để tên người nhận và cũng không biết cơ quan truyền thông nào chịu trách nhiệm phát hành.
____________________________
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải

(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958) 

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố: 

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. 

(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc. 

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.

(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. 

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc 

(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)

* Chú thích: 

Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
_____________________________
Tôi đã kiên nhẫn theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên của người dân SaiGon tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN, đến nay rất nhiều học giả TSGS, luật gia VN hay ngoại quốc, trí thức Việt kiều hải ngoại thay phiên nhau tranh luận, chủ yếu chỉ dựa trên "Bức công hàm PVĐ 1958" để biện hộ cho ông và ra sức tranh cãi pháp lý quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai quần đảo này. Tôi chưa thấy ai đề cập gì đến "Bản tuyên bố chủ quyền và hải phận của TQ 04/09/1958" và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào khác ngoài hai văn kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng "Bản tuyên bố TQ 04/09/1958" có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng nội dung yêu cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên "Bức công hàm PVĐ 1958" mà không nhắc gì đến "Bản tuyên bố TQ 1958" thì theo tôi, quả là một thiếu sót rất lớn hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng công luận nhằm che dấu một sự thật hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc đi đọc lại hai văn bản này hàng chục lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn dắt đến tình thế phức tạp của VN hiện nay trong vùng Biển Đông.
Sau đây là những phân tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại giao quan trọng đó.
1) Sai lầm nghiêm trọng
Bức công hàm PVĐ 1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy:
a) Sơ hở về thời gian: Từ khi nhận được "Bản tuyên bố chủ quyền và hải phận TQ ngày 04/09/1958" cho đến khi PVĐ đặt bút ký "Bức công hàm ngày 14/09/1958" chỉ vỏn vẹn có mười ngày (10) ngắn ngủi, để quyết định một sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền Bắc VN và TQ kết thân nhau như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới tuyến chống đế quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày để bàn bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu không còn biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh? Phải chăng tình hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó quá tồi tệ, lòng dân ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát hàng trăm ngàn người dân vô tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí thức, sau khi hàng triệu nguời di cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn toàn, miền Bắc VN túng quẫn, nạn đói đe doạ trầm trọng ép buộc chính quyền Hà Nội và ĐCS VN phải cúi đầu tuân lệnh ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và nhu yếu phẩm? Thời gian trả lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu "tối hậu thư" thúc ép Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay cho vận mệnh dân tộc VN!
b) Sơ hở về hình thức: Tại sao chính phủ VNDCCH phải sử dụng đến hình thức ngoại giao công khai chính thức rất ư nghiêm túc chỉ để trả lời một “bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc danh không tên tuổi" đáng vứt vào sọt rác? Phải chăng đây là một mánh khoé chính trị, một cạm bẫy do ĐCS TQ giăng ra để ép buộc Hà Nội rơi vào vòng kiềm toả của họ? Tôi nghĩ thầm đến hai giả thuyết, như sau:
- Một là lãnh đạo TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS Hà Nội tỏ vẻ cứng đầu phản đối, hoặc cù cưa không trả lời;
- Hai là lãnh đạo TQ sử dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời công khai chính thức bằng văn bản ngoại giao, để sau này họ nắm trong tay đầy đủ chứng từ trưng ra trước công luận thế giới. Giả thuyết này ngày nay đã thành hiện thực, bản thân thế hệ trẻ sau này đành phải đưa đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị tàu TQ xua đuổi, bị phá phách, bị cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.
c) Sơ hở về nội dung: Bức công hàm PVĐ 1958 không đề cập gì đến "yêu cầu chủ quyền của TQ trên hai quần đảo HS-TS". Đúng thế, đọc kỹ công hàm vắn tắt chúng ta không thể tìm ra được câu chữ nào dính líu đến "chủ quyền TQ trên HS-TS". Tôi thầm nghĩ ông Hồ và toàn thể BCT thời đó hãy còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai chấp nhận chủ quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm trọng hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung hoành trong Biển Đông bao la:
- Một: Công hàm cho phép TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ quyền VNCH (HS-TS, miền Nam). TQ được quyền sử dụng mọi phương tiện quân sự để đánh phá những tàu bè VN đi vào các vùng hải phận này. Ai cũng biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không lớn hơn 1km vuông, rất thấp, không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải phận 12 hải lý (22km) bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế rộng lớn (hơn 1500 km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng tốt. Đó chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau khai thác vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi, thậm chí muốn vào tránh bão cũng không được.
- Hai: Công hàm PVĐ 1958 đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) ấn định bởi những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ biển TQ đến tận các hải đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS). Mỗi đường thẳng căn bản này được TQ đòi hỏi có một hành lang rộng 12 hải lý (22km). Trân trọng mời quý vị độc giả quan sát bản đồ Biển Đông (đính kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao la ấn định bởi những đường thẳng nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ của Trường Sa, nơi xa nhất (khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ lệ của bản đồ). Chấp nhận vùng hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận thế bị bao vây, mọi con đường hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay Đại Hàn về hướng Đông đều bị ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ đại mà TQ hiện nay đang cố gắng nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu đứng thứ 2 thế giới, nhằm bao vây Việt Nam. Trong tương lai VN không còn đất đứng, đành phải chịu thân phận "một vùng tự trị giống như Tây Tạng".
- Ba: Đừng thắc mắc tại sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS đánh chìm tàu hải quân VNCH (miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ tại sao bỏ rơi miền Nam, vì nhân dân Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc VN, mà hãy trách cứ tại sao ĐCS VN đã cúi đầu công nhận chủ quyền TQ trong một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) rộng hơn gấp hai lần lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân tộc VN hiện nay trong Biển Đông chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công pháp quốc tế có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ khi họ chìa "bức công hàm PVĐ 1958" ra làm bằng chứng.
c) Sơ hở về chiến lược: Lý do gì ĐCS VN không cho phép nhật báo Nhân Dân trích dẫn "Bản tuyên bố TQ 04/09/1958" mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ? Đây là một thiếu sót vô cùng hệ trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi rằng "Bản tuyên bố TQ" tìm thấy trên Google là giả tạo ? Có ai dám lục hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem "Bản tuyên bố TQ thật" ra đối chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN: đó là bản chất lừa dối, dấu diếm sự thật, lập lờ đánh lận con đen để lừa phỉnh quần chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn thể Bộ Chính Trị ĐCS VN bị dồn vào thế thụ động phải tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng để trốn tránh trách nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng PVĐ đứng ra chịu tội, sau này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông PVĐ mà quên đi rằng toàn thể lãnh đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai từng sống dưới chế độ vô sản chuyên chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất dịch "Đảng lãnh đạo / Nhà Nước quản lý / Nhân Dân làm chủ". Do đó trách cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai hoàn toàn. Tôi chỉ buồn là vào thời kỳ đó, toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung sức và uy tín rất cao, và đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên tiếng về quyết định trọng đại này? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã bị chủ nghĩa giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân xâm lược Bắc Kinh. 
C- Kết luận:
Thật không dễ chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu lịch sử cận đại VN, khi mà có quá nhiều dấu diếm, tuyên truyền dối trá nhằm che đậy sự thật do ĐCS VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ. Nói theo lời anh Nguyễn Ngọc Giao (báo Diễn Đàn) rằng "ba thế hệ dân tộc VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt hơn 60 năm ròng", sách giáo khoa đã bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một thế hệ "nô dịch" phục vụ cho mưu đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc Việt mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu để kiến tạo nên một đất nước oai hùng chống xâm lược không mỏi mệt. 
Không thể nào nói chuyện "hoà hợp hoà giải dân tộc" khi mà chủ nghĩa giáo điều CS là kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ nhằm vu khống cho cả triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được sử dụng trên báo chí truyền thông "lề đảng", nào là: nguỵ quân, nguỵ quyền, nào là chi'nh phủ bù nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc, Việt gian. Đến bây giờ nếu ai công tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay "kẻ phản quốc, phản động, bù nhìn, tay sai ngoại bang, nguỵ quyền" chính xác là tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái Quả, kẻ nào gây Nghiệp ác thì phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không sai chút nào. 
Bài viết này mới chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau "Bức công hàm PVD 1958". Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc VN suốt nửa thế kỷ dẫn dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân tích ở bài viết sau. Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là "một chiến thắng vinh quang", ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc. 
Rất mong nhận được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương, trong và ngoài nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân tộc Việt Nam.
Thành thật cám ơn,

Cái Đẹp cứu rỗi Đất Nước

Đã hết ngày 30/4. Chúng ta nhìn lại giai đoạn ấy và cả bây giờ để xem thử còn lại gì? “Nửa triệu người vui, còn nửa triệu người đau buồn”. Nửa triệu người vui ấy, chỉ vui trên chiến thắng của mình, chứ nếu nửa triệu người vui chịu suy xét nhìn lại phần thời gian từ sau chiến thắng ấy đến giờ, nửa triệu vui cũng giống như nửa triệu buồn sẽ chẳng vui tí tẹo nào. Thật sự ta còn gì sót lại khi mà dân Việt chưa có một ngày tự do sau cái gọi là "thống nhất"? Bên "chiến thắng" có hiểu thế nào là chiến thắng sau bao đêm trường chiến trận của hai bên mà phe thắng đã gian khổ, thậm chí phải nương nhờ đến những cánh tay bao dung của người mẹ Việt anh hùng và trên tay, trên người, dưới đôi bàn chân luôn là những sản phẩm chiến tranh chế tạo từ Trung cộng, Liên xô?

Để rồi hôm nay khi mà ta nhìn vào hiện tại, những hình ảnh "chiến thắng" mang hình lưỡi liềm cứa nát con tim: 
Đấy là sự chua xót lòng của hình ảnh bà mẹ Nguyễn Thị Nhung và gia đình khi đứa con bé nhỏ của bà bị bắt và gán vào điều 88 “âm mưu lật đổ chính quyền” từ tháng 10 năm ngoái cho đến giờ. 
Chỉ cách đây 3 hôm đi thăm gặp con gái mình là Nguyễn Phương Uyên, bà tan nát thế nào khi thấy con bà tím bầm khắp cả mình, cô bé đã phải giấu nhịn nỗi đau của mình vào sâu trong tim khi mẹ hỏi. Vì sợ mẹ đau lòng khi biết mình bị đánh, rồi mẹ cứ gặng hỏi cho ra thì Phương Uyên mới dám trả lời: "con bị đánh đến ngất xỉu, con đã không biết tại sao mình bị như vậy, họ đã kiếm chuyện với con". 
Ai đã đem cho Uyên những thương tích trên mình đến đắng lòng không bao giờ phai dấu ở người mẹ bé Uyên? Ngoài ai ra mà còn hỏi? Không ai khác cả ngoài công an tỉnh Long An!? Không ai được quyền gây tổn hại đến cả tinh thần lẫn thể xác một người còn đang tạm giam mà chưa đem ra xét xử, huống chi đây là một người yêu nước bé nhỏ, mầm giống tương lai đất nước. Họ đã không biết trân quý lại đi bắt nhốt, hỏi cung, mớm cung, ép cung, vu khống, rồi đến cả cài người vào để gây sự gây thương tích, vả vào mặt mình cũng không biết cách vả lại đi trét thứ mắm muối hôi thối. 
Họ chính là những con người đang núp trong vỏ bọc thép của những cỗ máy xe tăng và giày xéo in hằn những vết nhọn tưởng là cán đích xong lại phang thẳng vào trong cung lòng, tâm hồn của những người oan khiên mà không cần hạn chế thủ đoạn. 
Cùng bắt và cùng tội danh với Nguyễn Phương Uyên là Đinh Nguyên Kha, nhưng đến hôm nay có lẽ không đủ bằng chứng để gán tội, nên đã truy tố Kha thêm tội danh khủng bố, mặc dù ai cũng dư biết cái tí thuốc nổ mà Kha mua từ chợ Kim Biên, Long An về chỉ là để làm pháo bông, pháo nổ đốt linh tinh vào ngày tết cho vui. 
Họ chưa từng buông khí giới với ngay chính đồng loại thân yêu của họ! Có phải không? 
Hòa bình và hòa hợp ở lại trong chúng ta sau ngày 30/ 4 đỏ lửa? Không hề! Chính họ đã không ngừng nghĩ tạo nên bức tường ngăn cách khi gọi những tiếng nói đối lập, là thế lực thù địch, phản động, những suy thoái đạo đức trong tư tưởng, là tự diễn biến hòa bình, là lợi dụng tự do tôn giáo… để tha hồ quy chụp, tặng mũ, tặng bao cao su, hốt tù. Đấy là hòa bình và hòa hợp ư!? 
Nếu chúng ta có một thùng với lỗ thủng, chỉ có cách là ngay lập tức phải vá cái lỗ đó, hoặc là phải vứt bỏ nó đi, nhưng ở đây họ đã không có thiện chí may vá, cũng không vứt bỏ và làm nên cái mới, ngược lại còn đem những tinh hoa con người, những tinh khí đất nước ra tống vào cái lỗ thủng đó cho khuất, cho te tua tàn tật. Họ vẫn cứ 38 năm trời thương tiếc cái thùng thủng ấy, đem vứt của đi thì tiếc và mong giữ nó bằng nùi giẻ đắp vá mang tên điều số 4 và Hòa hợp hòa giải dân tộc!? 
Họ đã thành công khi đã tuyên truyền và làm cho nhiều người tin rằng ngày 30 tháng 4 là một ngày mà họ đã chiến thắng cái ác, đem sự hòa bình, thống nhất cho mọi người. Vậy à? Vậy hỏi cái chiến thắng thật sự của họ nằm ở chỗ nào trên đất nước tan thương ngày hôm nay? 
Có phải "chiến thắng 30 tháng 4" đã được tiếp nối là những trận chiến thắng trên mặt trận cưỡng chế để rồi dân oan với những tháng ngày la lết hết nơi này đến nơi khác chỉ để mong đòi lại cho mình từng mảnh đất máu thịt từ bao đời? Tội nghiệp họ! mảnh đất gieo trồng để kiếm từng miếng ăn trên đó giờ đây theo trời chiều u tối, hình ảnh họ chính là câu trả lời cho niềm tự hào chiến thắng vô bờ của đảng và nhà nước!? 
Có phải tiếp nối là những trận chiến thắng trên mặt trận ngoại giao để Hoàng Sa, Trường Sa phất phới cờ đỏ 4 sao, để Ải Nam Quan lùi về bên kia biên giới, để ngư dân bám bờ thay vì bám biển và để những công dân Việt Nam yêu nước bị đạp mặt, còng tay và bỏ tù!? 
Đúng, đất nước Việt Nam cần nhiều tình yêu thương hơn là sự chiến thắng, cần nhiều tình yêu thương là thù hận nhưng làm thế nào được khi những kẻ "chiến thắng" vẫn 38 năm ròng rã gọi đồng bào của mình là ngụy quân ngụy quyền, vẫn miệng nói hòa hợp hòa giải mà tay tra còng/điều 88 vào tay chân của Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phương Uyên, Nguyên Kha, Việt Khang... 
Làm thế nào được khi ngày 30 tháng 4 đã chưa từng là một trang sử mới, hướng đến tương lai trong tinh thần nhân ái giữa người và người mà thay vào đó những người "chiến thắng" vẫn ngủ quên trên những chiến xe tăng tiến tiến vào Dinh Độc Lập, vẫn nâng chén vinh danh chiến thắng bằng huyền thoại "Điện Biên Phủ trên không", vẫn cụng ly say sưa trong sự láo khoét về những xác người bị chôn sống trong tết Mậu Thân. Và rồi cao hứng cất tiếng can ngăn vô lý, cấm đoán trái phép, bắt bớ những chính kiến. Hòa hợp hòa giải!? 
Điều khiến một vị thuyền trưởng lèo lái một con tàu ngoài đại dương e sợ nhất, thật sự đó không phải là những con sóng lớn vỗ vào mạn thuyền ầm ầm. Điều đáng sợ nhất là những con sóng ngầm mà không hề đoán biết được nó. Hôm nay họ ăn mừng chiến thắng ngày 30/4 vẻ vang bằng những buổi tiệc linh đình, bằng những tràn pháo hoa kéo dài 15 phút, bằng những lễ hội tốn tiền tỉ mà chưa một lần giày vò, ăn năn cho những tội lỗi của mình thì họ vẫn chưa nhận ra được đâu là điều "chiến thắng" thật: chiến thắng lòng người. Chính họ vẫn tiếp tục chặng đường 38 năm tạo ra những cơn sóng ngầm làm tan tác lòng người, những cơn sóng ngầm chắc chắn đánh xì những cái phao giả tạo hòa hợp hòa giải và sẽ nhấn chìm những kẻ đang điều khiển con thuyền. 
Chiến thắng đúng nghĩa là chiến thắng của Thiện chống Ác. Nó phải là hệ quả tất yếu của cái đẹp đứng lên trên mọi xấu xa. Chiến thắng thật sự phải là chiến thắng để giành lấy cái đẹp, trong viên mãn chân lý. Nếu ví chiến thắng là trồng thành công một cây ra hoa trái, thì cái đẹp là hoa trái ấy phải đem ích lợi đến cho người khác. Cái đẹp không phải là một bức tranh hay một nhan sắc đẹp nhưng là một giá trị cảm xúc có thể làm thay đổi tất cả một con người. Tình nghĩa đồng bào, tình yêu thương gia đình, lòng yêu nước... là những “cái đẹp” có sức lay chuyển hơn hẳn những súng đạn, những tù tội, những cấm đoán, những hận thù. Dostoievsky nói thật sâu sắc: "cái đẹp cứu độ thế giới"
Khi ta đã nhận ra cái đẹp và vì nó mà thay đổi thì con thuyền ta lái chỉ có thể đón lấy những con sóng nhỏ tình yêu vỗ vào mạn tàu liên hồi như cùng dìu con tàu về đến bến, chợt nhớ câu thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh thật hay trong bài “Sóng”: 
Ước gì được tan ra 
Thành trăm con sóng nhỏ 
Giữa biển lớn tình yêu 
Để ngàn năm còn vỗ...
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn miệt mài mong chờ chiến thắng thật sự đó. Cuộc chiến thắng của Thiện đối với Ác; của Đẹp đối với Xấu. Chiến thắng đó chỉ có thể xảy ra khi những con người hướng về Chân Thiện Mỹ hòa hợp với nhau và bỏ qua mọi bất đồng về quá khứ. Nó không bao giờ xảy ra trong cái gọi là hòa hợp hòa giải giữa Thiện và Ác, giữa những người chụp lên đầu Phương Uyên, Nguyên Kha cái mũ phản động, cái còng số 88 với những người thật sự muốn tranh đấu cho tự do của Uyên, Kha và của 87 triệu con người Việt Nam.

Sinh viên nghỉ lễ: “Chìm” trong nhậu

(Dân trí) - Không có tiền mua vé xe về quê hay tham gia các hoạt động trong kỳ nghỉ lễ dài nhưng nhiều sinh việc lại chi gấp nhiều lần so với số tiền đó vào bia rượu khi ở lại thành phố dịp nghỉ lễ.

Nghỉ ngày nào nhậu ngày đó
Dân cư tại các xóm trọ sinh viên (SV) ở TPHCM trong đợt lễ dài ngày thưa hơn ngày thường khi nhiều người có những kế hoạch như về quê, đi du lịch, thăm nhà bạn bè… Nhưng không vì ít người mà các khu trọ bớt náo nhiệt mà ngược lại còn rình rang hơn khi SV tổ chức tiệc tùng triền miên trong đợt nghỉ.
Những khu nhà trọ ở đường Phan Văn Trị, Dương Quảng Hàm, Lê Lợi… (Q.Gò Vấp) nơi tập trung đông SV Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, ĐH Văn Lang; đường Hà Huy Giáp (Q.12) ở khu vực trường CĐ Điện lực, CĐ Bách Việt trong đợt nghỉ lễ đã trở thành những “điểm” nhậu đúng nghĩa. Bắt đầu từ 3 - 4 giờ chiều, bạn bè của họ kéo nhau về đây, xe máy dựng kín lối đi và bắt đầu… hò nhau ăn nhậu. Người chuẩn bị mồi, người chuẩn bị bia rượu, nhiều phòng có từng két bia xếp chồng lên nhau đặt trước cửa ra vào.
Cảnh ăn nhậu trước cửa phòng trọ của một nhóm SV Trường CĐ Điện lực TPHCM
Cảnh ăn nhậu trước cửa phòng trọ của một nhóm sinh viên Trường CĐ Điện lực TPHCM
Liên tục mấy ngày nay, tại khu trọ của SV tên Đức (ĐH Công nghiệp TPHCM) ở đường Dương Quảng Hàm lúc nào cũng có vài ba độ nhậu, có những cuộc vui kéo dài từ trưa chiều ngày hôm nay đến tận 1 - 2 giờ sáng hôm sau có cả nam lẫn nữ. Lý do của họ là "không đi đâu ở lại không nhậu thì... biết làm gì".
Không chỉ nhậu trong phòng, nhiều nhóm còn kéo bàn nhậu ra ngay giữa lối hành lang đi lại cho thoải mái. Két bia này đến két bia khác, sau những cuộc “hùn vốn”, tiền trong ví đã cạn, nhiều nhóm từ bia chuyển sang uống rượu để kéo dài cuộc vui. Nhiều SV say “ngoắc cần câu” nằm li bì một chỗ, còn những SV nào còn gà gật thì vẫn còn ráng.
Đức cho biết, những SV không về quê cũng không đi đâu trong dịp lễ thì chủ yếu “liên hoan” bằng nhậu nhẹt. Đêm uống xỉn, ngày hôm sau ngủ li bì đến chiều lại có hội nhậu tiếp. Nhóm bạn của Đức, có nhiều SV than không có nổi 200 - 300 nghìn đồng mua vé xe về quê nhưng họ lại có thể chi gấp nhiều lần số tiền đó cho bia rượu. Cho dù sau bữa nhậu, có thể ngày hôm sau họ không còn một đồng lẻ để mua mì gói ăn qua bữa nhưng không bận tâm vì "vui hôm nay, ngày mai mới tính".
Bà Nguyễn Thị Sáu (tên gọi ở nhà), chủ 10 phòng trọ ở đường Hà Huy Giáp (P. Thạnh Lộc, Q. 12) cho biết, có nhiều phòng SV thuê gần như cuối tuần nào cũng nhậu, gây ầm ĩ, bà phải ra nhắc nhở liên tục. Đợt lễ, nhiều phòng không về quê thì mức độ ăn nhậu của SV còn dày đặc hơn khi họ kéo nhóm bạn này đến nhóm bạn khác đến tụ họp.
Nghỉ lễ không về quê, nhiều SV tụ tập ăn nhậu
Nghỉ lễ không về quê, nhiều SV tụ tập ăn nhậu.

Bà chủ nhà này cho rằng, SV ăn nhậu là điều khó tránh vì các bạn ham vui. Khi chủ nhà nhắc thì họ “dạ vâng” bảo bọn con giải tán ngay nhưng chủ nhà quay đi thì lại nhậu tiếp. Nếu SV nhậu nhẹt mà đuổi đi thì không xuể nên chỉ những cô cậu nào ăn nhậu rồi đánh lộn, gây rối thì bà Sáu mới lấy lại phòng. 
Không chỉ ở phòng trọ mà tại quán nhậu bình dân quanh khu trọ cũng rất đắt khách SV trong đợt nghỉ lễ. Dốc tiền ăn nhậu, không ít cô cậu còn nhậu nợ hoặc vay mượn tiền bạn bè để “dốc” vào bia rượu.
Sinh viên thiếu người quản lý?
Thực trạng SV ăn nhậu có thể thấy rõ ở nhiều khu trọ SV. Không ít trường hợp SV để có tiền nhậu nhẹt sẵn sàng cầm cố máy tính, xe máy hoặc tìm mọi cách “vòi” thêm tiền từ gia đình. Nhiều SV hàng ngày luôn sinh hoạt ăn tiêu trong cảnh “thiếu đói” nhưng khi ăn nhậu thì không hề kém ai.
Trong các ngày cuối tuần hay các cuộc vui như sinh nhật, họp mặt hay đơn thuần muốn vui vui, SV đều có tổ chức nhậu nhẹt tại chỗ ở hoặc ra quán. 
Tụ tập ăn nhậu đã trở thành thói quen của một bộ phận sinh viên
Tụ tập ăn nhậu đã trở thành thói quen của một bộ phận sinh viên
Lý giải về việc SV dễ “bắt tay” các thói hư tật xấu như ăn nhậu, cờ bạc…, SV Vũ Thị Diệu (ĐH Sư phạm TPHCM) cho rằng điều này bắt nguồn từ việc SV thiếu quản lý từ gia đình lẫn nhà trường, khác hẳn với khi học phổ thông. Có những SV ở xa, nhiều năm đi học không về nhà, liên hệ với gia đình chỉ thông qua những cuộc điện thoại hỏi han. Mối quan hệ ở trường ĐH, CĐ với SV cũng rất lỏng lẻo, gần như SV không có một ai quản lý, định hướng mà tự mình thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống nên dễ sa ngã.
SV dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống không lành mạnh không chỉ do môi trường sống như sống xa nhà, sống ở các khu trọ, ít tham gia các tổ chức hoạt động đoàn thể mà còn vì SV có nhiều thời gian rảnh rỗi nên tăng nguy cơ tiếp cận lối sống với các lối sống, hành vi tiêu cực. Hơn nữa, các hoạt động xã hội, đoàn thể chưa tiếp cận được với nhiều SV cũng như chưa thật sự thu hút SV tham gia.
ThS Hoàng Xuân Sơn (Trường ĐH Kinh tế TPHCM) cho rằng vai trò của Đoàn Thanh niên đối với việc giáo dục đạo đức SV rất quan trọng nhưng chưa phát huy được hết hiệu quả. Đoàn Thanh niên cần thực hiện tốt hơn nữa các nhiệm vụ như tạo nhiều sân chơi lành mạnh, bổ ích mang mục đích định hướng, giáo dục truyền thống cho SV cũng như việc trách xa các tệ nạn, lối sống thiếu an toàn, lành mạnh.
Bên cạnh đó, các trường ĐH cần phải có những phương pháp giáo dục đạo đức hiệu quả hơn cho SV. Đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa giảng viên và SV, nhà trường và gia đình chặt chẽ hơn nữa để tăng sức “đề kháng” cho SV.