Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình,
vàng thau, phải trái, cao quý ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt
đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ.
Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au
conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh này, vì nó có
thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của nhiều đời trước cho
nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức càng gần đúng như nó có,
khiến sự lựa chọn của con người khách quan hơn, có hiệu quả tích cực
trong quá trình chủ động thích ứng với mọi đổi thay của môi trường sống
và môi trường xã hội.
Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc
thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước
ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp
bằng cách che đậy, “nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo
vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói
của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.
Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức
nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô
cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả
buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào.
Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm,
báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ
rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao
nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được
đánh giá là chín chắn.
Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói
dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ
nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân
chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô
bộc của nhân dân.
Rồi nói về cần kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả
quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói
dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe
không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải
thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được
phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ
mình.
Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng
cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp
đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm
người lại không nói.
Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân
dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm
quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối.
Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả
nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và
mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền
hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người hoạt
động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái
thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp
của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có
tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao trùm rộng khắp nhưng
cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có
đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là
ai mà truy cứu.
No comments:
Post a Comment