Thursday, January 10, 2013

Ẩm thực đường phố


Bộ Y tế vừa cho hay, kể từ đầu năm 2013, các cơ sở (cửa tiệm, quán ăn, gánh hàng...) bán thực phẩm ăn ngay (đã nấu chín, chế biến...) phải có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ của nguyên liệu thực phẩm, chỉ được dùng các chất phụ gia thực phẩm nằm trong danh mục cho phép.

Đó là những yêu cầu mà ngoại trừ nhà hàng lớn, ngay cả quán xá bình thường cũng chẳng đáp ứng nổi. Hóa đơn chứng từ vẫn còn là thứ xa lạ khi chợ búa cổ truyền vẫn còn tồn tại khắp nơi. Một ngôi chợ hàng trăm thứ hàng và tất cả hàng đều không có hóa đơn thì hàng ăn lấy đâu ra hóa đơn nổi. Trong vô số hàng ăn lớn nhỏ, làm sao kiểm soát cách nấu nướng, và những chất phụ gia nào thêm vào thì chịu thua.

Đó là nguyên tắc chính, còn một lô điều kiện phụ là găng tay dùng một lần, chén đũa vệ sinh, đồ dùng che chắn bụi bặm, ruồi nhặng, bồn rửa tay...

Cả một bảng dài nguyên tắc về vệ sinh thực phẩm cho thực khách, ẩm khách rất văn minh, hiện đại mà nghe qua ai cũng thấy... không thể thực hiện.

Bởi vì mất vệ sinh là chuyện đương nhiên trong các hàng quán ở Việt Nam.



Tiệm hủ tíu, tiệm bún vịt... nhìn bên ngoài hàng bày bắt mắt nhưng chỉ cần đi vào trong là thấy ghê liền. Chế biến, nấu nướng, rửa ráy... đều trong một khuôn viên bếp chật chội. Thường là thức ăn để la liệt dưới sàn nhà chứ chỗ đâu mà kê bàn. Cho nên nguyên liệu sống, thức ăn chín, nồi niêu chén dĩa rửa ráy để lẫn lộn cạnh bên nhau bình đẳng. Nhà cửa thành phố thường nhỏ xíu. Vốn là nhà để ở, được chỗ thuận tiện thì mở cửa hàng, khi thì hàng quần áo, khi sửa điện, khi hàng ăn... Nay mở quán ăn thì không cách nào đủ chỗ xoay xở.

Giá thuê nhà lại đắt, chỉ vài mét vuông ở góc phố đã chục triệu mỗi tháng và giá thuê tăng đều đều thì làm sao bảo đảm không gian thông thoáng, sạch sẽ...

Muốn đạt được chứng chỉ vệ sinh an toàn thực phẩm như vậy phải vào nhà hàng, restaurant, siêu thị sang trọng. Cỡ nhà hàng 4, 5 sao may ra chứ 1, 2 hay 3 sao thì chắc cũng vậy vậy.

Quán tiệm còn vậy nói gì hàng ăn vỉa hè.

Chường mặt ngoài đường của một thành phố nổi tiếng ô nhiễm. Nắng, gió, bụi, khói xe... suốt ngày phả vào hàng ăn đường phố. Từ nồi bún riêu, bún mắm... nghi ngút khói cho đến chim cút quay, gỏi cuốn, chuối chiên... sẵn sàng hứng bụi trần phủ kín.

Có thực khách còn khen hàng bánh bột lọc ngon vì có lẽ do bàn tay cô chủ vừa bốc bánh vừa cầm tiền! Bà bán mít ngồi xẻ và bóc trái mít vĩ đại bằng hai bàn tay trần. Tay dính xơ mít, nhựa mít..., bà chùi vào... quần. Khi có người hỏi mua, bà mới vội xỏ tay vào chiếc găng tay nylon bốc mít cho đẹp mắt trước khách.

Món ăn có nước thì bắt buộc phải múc vào tô sành, tô nhựa. Gánh bún bò, xe cháo huyết... rành rành có mỗi hai xô nước bên cạnh. Một xô xà bông và một xô tráng lại. Muốn sạch sẽ hơn cũng không được. “Quy mô” của hàng ăn vỉa hè buộc gọn gàng chứ đâu có bành trướng được. Mở rộng quá bị dẹp liền tức khắc.

Thành thử hễ không ăn thì thôi, còn ăn thì mắt nhắm mắt mở.

Hàng rong đi tới đâu xả rác tới đó. Xe trái cây đi qua thì vỏ trái, que ghim vứt xuống. Chung quanh xe cháo mực là giấy vệ sinh và tăm tre vương vãi. Ngoài xe và gánh hàng rong thì còn xe của thực khách đậu ngổn ngang. Nơi nào có hàng ăn là cả vỉa hè lẫn dưới lòng đường đều bị chiếm đoạt.

Thế nhưng xóa bỏ ẩm thực đường phố dường như là việc khó khăn. Nếu dẹp lòng đường thì hàng ăn nhảy lên vỉa hè hoặc chạy trốn rồi quay lại như cóc bỏ dĩa. Hàng nước phát cho mỗi người khách một mảnh báo để kê ngồi đâu... tùy ý, ly nhựa uống xong khỏi cần thu lại. Đồ hàng chất trên một chiếc xe đạp hay xe gắn máy sẵn sàng đẩy đi khi thấy bóng cảnh sát. Hoặc các thứ đồ hàng giấu vào đâu đó. Chủ nhân rút từ khe tường này phích nước sôi, kẹt cửa nọ hũ chanh muối. Cùng lắm thì chui vào hẻm pha chế và nhanh chóng bưng ra ngoài đường một ly nước “ngon bổ rẻ”. Bởi vậy khi cà phê vỉa hè bị dẹp thì Saigon xuất hiện ngay “cà phê bệt”, ngồi bệt đại dưới đất với ly cà phê cầm trên tay hay để ngay dưới đất. Hình thức này được báo chí khen ngợi như một sinh hoạt thú vị đã bị dẹp, công viên giăng dây xung quanh cho khỏi túm tụm mà bệt nữa.

Vả lại mọi người nhận xét trúng thực toàn xảy ra ở căn tin nhà máy, trường học, đám cưới là những nơi thức ăn được nấu nướng bởi các cơ sở có giấy phép đàng hoàng chứ ít thấy trúng thực đường phố (!).

Dù sao trong tình cảnh nền kinh tế vẫn còn trì trệ, nếu chưa giải quyết được tình trạng thất nghiệp gia tăng thì tốt hơn hết chẳng nên vội vàng đạp đổ thêm những niêu cơm bé nhỏ.

Hiện nay, việc ăn uống hằng ngày của người dân nhất là dân ở các thành phố lớn (nhiều người đi làm trong cơ quan, hãng, xưởng...) ngoài các buổi ăn uống trong nhà thì thường ghé các quán ăn nhỏ, gánh hàng rong vỉa hè... rất tiện lợi. Ngay tại trung tâm của thành phố, các đại lộ lớn nơi tọa lạc các trung tâm thương mại cao cấp, tới giờ nghỉ trưa, người ta vẫn thấy nhân viên túa ra ngoài đường. Những chiếc xe gắn máy tới tận các công trường hay khu văn phòng để bán cho công nhân. Cơm canh nóng sốt, sữa đậu nành nóng, trà đá đều bán với giá bình dân.

Quả thật ẩm thực vỉa hè vô cùng phong phú. Vô vàn món ăn cho ba bữa chính. Buổi sáng có đủ loại điểm tâm bánh cuốn, phở, hủ tíu... trưa có cơm, bún... xế là chè, cháo, tàu hũ... tối tràn lan gỏi, ốc, phá lấu... Phân biệt một chút cho vui thôi chứ cơm bún cháo chè hiện diện đủ mặt từ sáng đến khuya. Suốt thời gian một ngày dài đó, người ta có đủ thứ để ăn cho vui, để đỡ buồn, để chia xẻ, để lấp thời gian, để giải trí...

Đường phố cũng cung cấp thức ăn thích hợp cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Trước cổng trường, trước bệnh viện đều có thực phẩm phù hợp cho nhu cầu mọi người.

Hàng quán vỉa hè tồn tại từ nhiều năm qua và ngày càng phát triển do nhiều nguyên nhân: Dân các tỉnh đổ về thành phố lớn do bị mất đất trồng trọt, nhà đất bị giải tỏa làm khu công nghiệp, bão lụt thường xuyên làm mất trắng cơ nghiệp... Không có nghề nghiệp, không có vốn liếng nhiều, họ làm gì ngoài việc buôn bán hàng rong từ thuê mặt bằng mở quán cóc, xe hủ tíu, thúng xôi, gánh bánh tằm bánh mặn...

Những “điểm” ẩm thực nhỏ xíu và di động như vậy làm sao đáp ứng được vệ sinh an toàn thực phẩm. May lắm là đạt được điểm “ngon”.

Hàng lề đường ngon vì trong số đó nhiều hàng là gia truyền như bún bò Huế Bùi Thị Xuân, gỏi khô bò Hai Bà Trưng...thiên hạ truyền miệng nhau như những địa chỉ ẩm thực không thể bỏ qua...

Lề đường không những chỉ món ngon mà còn món “độc”. Người ta chỉ có thể tìm thấy gánh bánh tai yến trên đường Lê Thánh Tôn, khách dù đi xe hơi nhìn thấy đều dừng lại, xe cà na cấm chỉ... góc Thích Quảng Đức, bò nướng xiên ở Âu Dương Lân... Buổi sáng, đầu hẻm Sở Rác có một thau xôi to bằng chiếc thau giặt mùng mền với ba, bốn người phụ bán. Đừng nói tất cả hàng lề đường mất vệ sinh. Xôi nóng xới trên mặt một bao nylon lót tờ giấy bên trong cho phẳng kèm thêm một bịch nhỏ đường, một bịch muối mè. Mỗi gói cột dây thun riêng rẽ bỏ chung vào một túi xốp móc vào tay xe. Tất cả chỉ năm ngàn đồng.

Đúng là ưu điểm nổi trội không thể bỏ qua là hàng ăn đường phố không tốn tiền thuê nhà, không mất công cho trang trí nội thất, thuê mướn nhân viên. Chi phí thấp nên giá thành thấp. Giá cả bình dân là đặc điểm chính yếu khiến ẩm thực đường phố thu hút khách hàng và khó dẹp bỏ.

Hầu hết dân chúng không thể vào tiệm, hàng ăn đường phố phù hợp với túi tiền của họ hơn. Và đừng tưởng ở hàng quán lề đường chỉ có giới lao động mà lầm to. Ở đó các bà các cô áo dài, áo đầm, áo pull má phấn môi son hào hứng xề tới ăn uống ngon lành.

Đường phố là nơi nảy sinh, thí nghiệm các món ăn mới. Bánh tráng trộn, bắp xào, trứng gà nướng, bạch tuộc nướng... đều xuất thân từ ẩm thực đường phố.

Dù món ăn chơi hay ăn no, thức ăn vỉa hè đều là fast food. Từ ổ bánh mì xíu mại, chiếc bánh bao cho tới bún thịt nướng, chén tàu hủ... đều được trao ngay ăn liền khỏi chờ đợi nấu nướng lôi thôi.

Đặc biệt xe mì hầu như không còn du cư nữa mà lựa một chỗ đứng yên thân nguyên buổi. Khách nhìn thấy xe mì ở đâu thì ghé đó ăn chứ bây giờ hầu như không thấy cậu bé đi rảo quanh các xóm gõ xực tắc như trước kia nữa.

Nói cho ngay, vệ sinh thực phẩm gào thét quá nên cũng có nhiều thay đổi. Thức uống như nước mía, cà phê được rót vào ly nhựa đậy nắp kín. Một số món ăn khô đơm vào bao nylon buộc lại như chè, bánh tráng trộn..., nhưng thường thì vào hộp xốp như cơm chiên, nui xào... Thau xôi phủ tấm khăn mùng, cút chiên bày trong tủ kính... Vậy xem là tiến bộ lắm rồi.



Mặt khác, ẩm thực đường phố đã được liệt kê là một nét văn hóa của Việt Nam. Bao nhiêu lời truyền miệng, bao nhiêu bài báo ca tụng về món ngon vỉa hè.

Ở Sàigòn thì có bài báo của Tây phương khen một xe bánh mì thịt nướng gần ngã sáu Phù Đổng Thiên Vương với nước sốt ngon nhất... thế giới. Sau khi bài báo đó được dịch và đăng trên báo Việt Nam thì số người xếp hàng mua bánh mì thịt của xe này dài thêm. Khách lắm khi đợi mười lăm phút chưa mua được ổ bánh.

Bà chủ gánh xôi lúa mỗi sáng ở góc đường Lê Thánh Tôn-Pasteur tự hào:

- Nhà báo tới phỏng vấn tôi nhiều lắm. Bao nhiêu đài tivi tới quay phim. Có hình tôi trong đĩa CD đấy nhé...

Để khách thưởng thức “món ăn vỉa hè” mà vẫn bảo đảm vệ sinh thực phẩm, một số người mở quán ăn với cách bày biện sạp hàng, quang gánh, thúng mủng... với những món ăn bình dân như bún mọc, bánh bèo tôm chấy, bánh đúc, chè bà ba, chè táo xọn... Với kiểu bài trí dân dã quen thuộc trong không khí sang trọng, chẳng ngờ khách Tây, khách Việt kiều nườm nượp kéo đến, quán biến thành restaurant bán đủ món với các loại rượu tây nhưng sạp gánh... thì vẫn giữ nguyên.

Từ đó, các khu du lịch, hội chợ, liên hoan ẩm thực bắt chước kiểu này. Cũng chõng tre, quạt bếp lò nướng bánh tráng, gói bánh tét... người nấu nướng bưng dọn mặc bà ba, đi guốc. Dĩ nhiên trình diễn theo kiểu hàng vỉa hè nhưng giá cả không vỉa hè chút nào, mà là giá restaurant...

Ẩm thực đường phố chính là một đặc điểm của Việt Nam, của Saigon. Chưa dẹp mà ai nấy đã luyến tiếc.

Làm sao để vừa giảm nạn thất nghiệp, làm đẹp bộ mặt thành phố, người mua được hưởng vệ sinh thực phẩm với giá cả vừa túi tiền... thì ẩm thực đường phố chưa biết thắng hay thua.

Thư thăm má nuôi

Kính thư hầu thăm má!
Con là thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, nước CHXHCN Việt Nam.
Kính thưa má: Không phải con dám xưng chức tước với má, song Trung Quốc vốn một nước đã to lớn, ngày nay còn mở rộng địa giới và lãnh hải, vì thế trong tay má có hàng ngàn đứa con nuôi, làm sao má nhớ hết được, và con nghĩ rằng xưng chức tước, cũng là cách nhớ ơn má.
Thưa má: Chỉ còn vài tuần nữa, ở dưới khu sẽ mời con tham dự tổng kết, tiệc liên hoan, con sợ đến lúc ấy, trí tuệ lẫn tâm hồn không được minh mẫn để viết thư, nên con sớm lo viết mấy dòng này kính chúc tết má. Sang năm Quý Tỵ dồi dào sức khỏe, tươi trẻ mãi, sống thọ dư trăm tuổi, chúng con mừng.
Kính thưa má: Trước khi tờ lịch cuối cùng, của năm cũ bóc xuống, con xin báo cáo vài việc đã thực hiện:
1- Ngay từ khi bố được tín nhiệm chức Tổng Bí Thư Trung Quốc vĩ đại, chúng con đã kịp thời chỉ đạo những tiến sĩ viết văn giỏi nhất nước, viết bài ngợi ca công đức lớn của má, đăng lên hết trên các trang báo ở xứ con, đồng thời truyền hình, radio, cùng với những loa ở khóm phường rập ràng loan tải nhanh chóng, bài:
"Phu Nhân Tập Cận Bình - Giọng ca đỉnh cao của Trung Quốc"
Bài báo đã được chín chục triệu nhân dân nhiệt liệt tán thưởng, tổng cục 2 còn báo cho con biết có rất nhiều ông già, ngồi ngắm hình má hàng ngày trời không biết chán! Họ ấn tượng sâu sắc giọng ca cao vút của má, nhiều người ao ước một ngày nào đó, được thỉnh má qua Việt Nam, hát bảng nhạc "Ba cô gái vút chông," cho toàn thể nhân dân nghe! Đó chỉ là ước mơ thôi, phải không má? Thiển nghĩ đất nước chúng con, không thể có diễm phúc ấy.
2- Từng bước chúng con sẽ giáo dục nhân dân Việt Nam, tôn kính Trung Quốc như cha mẹ, bằng chứng mới đây đồng chí Nguyễn Duy Chiến, bí thư đảng ủy bộ Ngoại Giao, kiêm phó ban Biên Giới, từng nhấn mạnh: 
"Trung Quốc cắt cáp của ta cũng như cha mẹ yêu con cho roi cho vọt". Má nên nhớ rằng, đây không phải cá nhân đồng chí Nguyễn Duy Chiến, mà lời chân thật, xuất phát từ đáy lòng của toàn đảng, toàn quân, toàn công an, và toàn thể quốc hội nước CHXHCNVN.
Kính thưa má: Tôn kính cũng chư đủ, khi mẹ cha biết yêu thương con cái, biết cho roi cho vọt, chúng con sẽ giáo dục nhân dân Việt Nam đến nơi đến chốn, phải biết ơn, phải biết hiếu thảo với mẹ cha nữa, chúng con đã khắc câu: "Trung Quốc cắt cáp của ta cũng như cha mẹ yêu con cho roi cho vọt" vào những tấm bia bằng đá quý, đặt khắp những con đường có lưu lượng xe đông nhất, hay những công viên hoành tráng nhất.
3- Phó giáo sư ưu tú, đại tá Trần Đăng Thanh, đã khôn khéo dùng sổ hưu, như hình ảnh bó cỏ trước mồm con ngựa, để gắn chặt đảng viên phải tuyệt đối trung thành với đảng. Đảng còn, còn gạo, đảng mất, phải: "Ngơ ngơ như mất sổ gạo" (tục ngữ miền Bắc, thời bác Hồ). Má thấy chúng con có siêu việt không? Nhân đây con xin má đặt cách, cho đồng chí ấy vượt quân hàm, thăng lên trung tướng.
4- Bản thân con luôn luôn đề xướng chủ thuyết: "Giải quyết tranh chấp biển đông, bằng biện pháp hòa bình." Thú thật với má, bố của con là Nguyễn Chí Thanh, có đạp mồ chui lên cũng cóc biết "biện pháp hòa bình" là cái khỉ khô gì, con chỉ biết điều bộ đội đi chỗ khác chơi, mỗi khi quân đội của thiên triều xuất hiện, ngoài biện pháp này con chịu thua. Chúng con ngăn chặn tức khắc những cuộc biểu tình, vì như thế là "gây bất ổn" là vong ân bội nghĩa đối với thiên quốc. Do đó cuộc biểu tình dù cố gắng thai nghén hàng tháng trời, chúng con kiên quyết bóp chết ngay trong trứng nước. Biểu tình chỉ diễn ra ba mươi giây, báo lề trái đưa tin cuộc biểu tình kéo dài mười phút, nói dóc đấy, con mong má "Đừng nghe những gì bọn chúng nói, mà hãy nhìn những gì bọn chúng làm ". Ngoài ra tên nào ngoan cố, chống lại Trung Quốc, bài hàng hóa Trung Quốc, nếu đàn ông, chúng con qui tội trốn thuế, tội mua dâm, nếu đàn bà qui tội bán dâm, không cần biết già hay trẻ, già mà bị tội bán dâm mới nhục chứ! Cho chúng nó ở tù mọt gông Inox. Má thấy chúng con có tinh không?
Kính thưa má: Mới đây cục tình báo Hoa Nam, cảnh báo rằng: "Cho người dân tham gia sửa đổi hiến pháp, sẽ nguy hiểm đến sự tồn vong của đảng và của chế độ". Con hết sức cảm ơn nghĩa tình thầy trò, đã luôn luôn quan tâm đến chúng con. Nhưng má yên chí, người dân ở xứ con nay đã thuần hóa tuyệt đối, như con mèo của Trạng Quỳnh, con xin kể hầu má nghe sự tích này:
Ngày xưa Trạng Quỳnh, ăn cắp con mèo của Chúa Trịnh, đem về nuôi trong buồng kín, tới bữa ăn trạng đem hai đĩa cơm, một đĩa cơm ngon trộn thịt rán thơm phức, một đĩa cơm thiu rình. Hễ mèo nhúng mõm vào đĩa cơm ngon, tức khắc bị đòn roi, bắt buộc phải ăn cơm thiu thối. Lâu ngày đã thuần thục, Trạng thả mèo tự do, có kẻ mét Chúa, Chúa gọi trạng vào phủ, hỏi:
Sao nhà ngươi dám bắt trộm mèo quý của ta?
Trạng đáp: Có đâu dám thế, nếu mèo của Chúa tất ăn cao lương mỹ vị, mèo của thần nhà nghèo, quen ăn cơm nguội, thần xin đưa vào phủ để kiểm tra? Chúa Trịnh bằng lòng.
Trạng Quỳnh, đem mèo vào phủ, kẻ hầu mang hai đĩa cơm, mèo không dám liếc mắt tới đĩa cơm thịt rán, chỉ cắm đầu ăn cơm hẩm. Trạng ung dung ẵm mèo về.
Má tin con đi, kết cuộc: Toàn đảng, toàn dân, toàn quân, kể cả Việt kiều "khúc ruột ngàn dặm, một bộ phận không thể tách rời" sẽ nhất trí, một lòng một dạ, khẩn thiết xin giữ điều 4 hiến pháp nước CHXHCNVN.
Về tình hình nội bộ:
A/ Đảng đã thăng hàm đại tướng cho Trần Đại Quang, thưa má tên này đâu có công trạng gì đâu, lý lịch, bằng cấp khai tầm bậy, tầm bạ. Nguyễn Phú Trọng, thăng nó tưởng rằng nó sẽ theo phò để chống lại Nguyễn Tấn Dũng, nhưng đời nào, thằng này chuyên nghiệp đi hai hàng, thờ lý tưởng "gió chiều nào, che chiều nấy". Con hy vọng được má chiếu cố tới con, con nghĩ má không nỡ hẹp hòi, nên đã cho người đúc hai cầu vai bằng vàng ròng, với tám ngôi sao bạc, chỉ chờ má gật đầu, đời con sẽ lên hương.
B/ Nguyễn Bá Thanh, ra Hà Nội làm trưởng ban nội chính. Điều này qúa khờ luôn, thằng Thanh ở Đà Nẵng khét tiếng vua ăn đất, giàu không thua Nguyễn Tấn Dũng, chống tham nhũng cái gì chứ? Ngày đất nước chiến tranh, nhờ cán bộ Trung Quốc cố vấn, dạy dỗ cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, làm nên chiến thắng thần thánh 30/4/1975, cả thế giới này ai biết? Sau này nhờ cán bộ Trung Quốc ta, giúp chỉ đạo xây dựng Đà Nẵng mới có ngày hôm nay, thế giới cũng mù tịt, thằng Thanh được hưởng xái cán bộ Trung Quốc, còn ra luật dở hơi: "Bất cứ người dân Trung Quốc nào ở Đà Nẵng, đủ 20 năm, đương nhiên có quốc tịch Việt Nam". Thưa má, luật này đã xúc phạm nghiêm trọng đến người Trung Quốc, vì người dân Trung Quốc là danh dự bậc nhứt của thế giới, ngu gì phải chuyển sang quốc tịch khác?
Má thấy đó những tên không ra gì, gặp thời lên vèo vèo, riêng con mãi mang hàm thượng tướng, xin má rộng lượng, đoái hoài thương con với.
C/ Về phiên tòa xử 14 tên đạo Gia Tô, tuy má chưa ý kiến, nhưng con xin má khoan thứ, chúng con giả vờ thả một tên, để thế giới bớt lên án, rồi sẽ cho công an kèm kẹp thật kỹ lưỡng, còn 4 tên lãnh án 3 năm. Má yên tâm, nếu chế độ chúng con tồn tại 3 năm nữa, chúng con sẽ cho chúng nó "bồi dưỡng" tiếp. Xin má thông cảm, thời buổi quá khó khăn vì internet, chứ má thấy đó hồi tết Mậu Thân, chỉ vài ba đêm cách mạng ta ngốn hơn năm ngàn người dân của ngụy, có sao đâu, bây giờ phải bấm bụng khoan hồng thôi má ạ.
D/ Chuyện con Phương Uyên, công an đang đe dọa chích thuốc vô sinh, để hắn nhận tội "làm tay sai" thay vì tội ghét Tàu. Sao dạo rày ở xứ con nhiều đứa ngu qúa thể, má nhỉ!?
Má Bành của Nguyễn Chí Vịnh
Kính thưa má: Con thông qua thư này trong nội bộ, hầu hết các đồng chí đều nhất trí, họ khen thư giải bày trung thực, và thành tâm, nhưng có người cẩn thận, gợi ý không nên để lọt ra ngoài, bọn thế lực thù địch lợi dụng để xuyên tạc và công kích. Con không sợ điều ấy, vì bác Hồ vị cha già dân tộc, thử hỏi ai là mẹ già của dân tộc Việt Nam? Thưa: Bà Tăng Tuyết Minh, người vợ chính thức có đăng ký kết hôn với bác, vâng chính bà ta mẹ già của dân tộc Việt Nam, thì má là má nuôi của con, tại sao lại bị cười chê, bị công kích? Được làm con của má, vô cùng hãnh diện và danh dự, chỉ có kẻ ganh tỵ mới dám cười cợt.
Thư đến đây khá dài, sợ bận lòng và mất thì giờ vàng ngọc của má, trước khi chấm dứt, một lần nữa sang năm mới, xin kính chúc má luôn trẻ đẹp, đệ nhất phu nhân của Trung Quốc vĩ đại và của cả thế giới muôn năm.
Bái thư, con của má.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh.

Diễn biến hòa bình hay bạo lực cách mạng

Posted by basamvietnam on 07/01/2013
“Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin.”
“Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ.”

Hoàng Lại Giang *

Dấu ấn của những cuộc “Bạo lực cánh mạng”
Nếu phải chọn một trong hai hình thái trên, tôi chọn ”DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH “. Bởi “Bạo lực cách mạng“ là bước đường cùng để nhân dân bằng “sức mạnh cứng” của mình đập tan một thể chế chính trị tàn bạo, tham nhũng, một thể chế đối lập với nhân dân về mọi phương diện, trong thể chế ấy mọi quyền của dân đều bị tước đoạt và kẻ cầm quyền lộng hành … đẩy dân vào con đường cùng. Tức nước vỡ bờ, trên thực tế đây là sự đối đầu một sống một chết giữa nhân dân – kẻ bị trị và bên kia là kẻ cầm quyền – kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền lực. Với tôi dù bên nào thắng thì vẫn gây ra những tấn thảm kịch cho nhân dân, dẫn đất nước vào chỗ suy vong.

Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi vô cảm với những cuộc “BẠO LỰC CÁCH MẠNG“ của nhân dân 13 xứ thuộc địa Anh cùng đứng dậy giành lại nền độc lập từ tay thực dân Anh và từ đó xây nên bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1791 ,trong đó có 10 tu chính án như đóng đinh vào lịch sử tiến hoá của nhân loại về quyền của con người và quyền của kẻ cai trị, trong đó dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo …” Và cuộc “Bạo lực cách mạng” Pháp năm 1789-1799. Tuyên ngôn nhân quyền từ cuộc “Bạo lực cách mạng” này cho tới hôm nay vẫn là điểm son mà loài người tiến bộ nhớ ơn: “…Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. “Nguyên tắc chủ yếu đặt ở chủ quyền Quốc gia. Không một tổ chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc đó”.
Chính những cuộc “Bạo lực cách mạng” trên đã tước đi những quyền mang tính tuyệt đối của các nhà cầm quyền độc tài, toàn trị, sa đoạ, và buộc họ phải coi dân làm trọng. Cách mạng tháng Mười năm 1917 là “Bạo lực cách mạng” lật đổ chế độ Sa Hoàng bằng sức mạnh cứng của nhân dân và quân đội. Nhưng cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta lại là cuộc “Diễn biến hoà bình”. Con đường thành công của cách mạng tháng Tám là cuộc tuyên truyền, vận động nhân dân…và chờ thời cơ chín muồi, chuyển hoá một chính thể thực dân – phong kiến sang chính thể dân chủ cộng hoà. Xét trên phương diện rộng, thì đây chính là chọn lựa của cụ Phan Chu Trinh: Khai dân trí,  Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lịch sử những cuộc chuyển hoá quyền lực
“Diễn biến hoà bình” thực chất là sự chuyển hoá tư duy. Từ tư duy cũ theo truyền thống, vận động sang tư duy mới tiến bộ hơn, hợp xu thế thời đại và hợp lòng dân hơn. Rất tiếc loài người đang ở giữa thập niên 20 của thế kỷ 21 mà một vài quốc gia như Việt Nam lại không muốn thay đổi tư duy, thậm chí muốn quay lại tư duy truyền thống theo kiểu phong kiến, nghĩa là ai giành được nước thì sẽ giữ độc quyền cai trị dân hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu trước đây theo kiểu cha truyền con nối thì ngày nay theo nhóm lợi ích có tôn chỉ mục đích đậm nét hình thức. Trên thực tế chính sách mị dân thuở ban sơ ấy đã mất lòng tin trong dân từ lâu lắm rồi. Quyền lực từ xưa tới nay bao giờ cũng có sức mê hoặc rất lớn, có sức hút đáng sợ, ngay cả những chính khách hay nhà văn hoá lớn cũng không dễ rứt ra được; và nếu quyền lực rơi vào tay những kẻ chủ yếu lao động bằng cơ bắp, mang “thành phần cơ bản”, thì quyền lực là mối nguy hiểm cho cả dân tộc! Và vì vậy họ rất sợ “Diễn biến hoà bình”. Những lý giải sai lệch “Diễn biến hoà bình” của họ hoàn toàn dựa theo cảm tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn lịch sử. Hãy đọc lại lịch sử nước nhà để thấy “Diễn biến hoà bình” là tất yếu của sự tiến hoá loài người, không có gì phải lo sợ.
Lịch sử Đại Việt còn ghi rõ ở triều Đinh, Đinh Tuệ lên ngôi lúc 6 tuổi. Vào lúc quân Tống chuẩn bị xâm chiếm nước ta, cả triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. Thái hậu họ Dương, vượt qua lệ ước dòng họ, đã đứng về phía Lê Hoàn, chấp nhận phế đế, chung lòng chống kẻ thù tuyền kiếp của Đại Việt. Cuộc phế lập trong ôn hoà của Dương Thái hậu và đình thần triều Đinh đã xoay chuyển tình thế, làm chỗ dựa cho cuộc chống Tống kết quả và đưa nhà tiền Lê vào lịch sử như một vương triều có công chống xâm lược của Đại Việt.
Cuối nhà tiền Lê, bắt đầu bằng cuộc tranh giành ngôi vương và sự bạo ngược của Lê Long Đỉnh …Triều thần tiền Lê đã sáng suốt tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Tất nhiên công đầu thuộc về nhà sư Vạn Hạnh. Không ngờ đây lại là một triều đại có tầm nhìn của trăm năm, nghìn năm, cấp tiến, để lại cho hậu thế những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể sáng giá cho đến tận hôm nay. Văn hoá đời Lý là văn hoá từ bi hỷ xả của Phật giáo. Nhớ lại cuối thời tiền Lê, xã hội Đại Việt lấy quyền lực làm quốc sách, anh em tranh giành nhau quyền lực, giết hại nhau vì quyền lực, tàn bạo, sa đọạ, dâm đãng … mới thấy Lý Thái tổ tôn vinh Phật giáo, lấy tư tưởng nhà Phật làm tư tưởng chính thống của Đại Việt là có lý do của Ngài. Con người ấy, tư tưởng ấy, tầm nhìn ấy đã không do dự dời đô về La Thành – Đại La và sau đổi thành Thăng Long. Về chính trị, ngoại giao,… Lý Thái Tổ đã tự mình làm gương, bắt các thái tử phải cầm quân ra trận. Dư âm của các sứ quân, rồi Chiêm Thành, Chân Lạp đều lo sợ không còn đất sống, phải triều cống Đại Việt để “bảo toàn đất nước và sinh mạng nhân dân”. Đại Việt bước vào thời kỳ nước yên, biển lặng, giặc Tống cũng nể sợ, muốn mà không dám gây hấn.
Vua tôi đồng lòng, đấy là thời kỳ giữa vua và dân ít có khoảng cách nhất. Suy đi ngẫm lại, phế và lập theo con đường “Diễn biến hoà bình” là cần thiết cho một xã hội tàn bạo, hủ bại, tham nhũng, hách dịch, chuyên quyền chuyển hoá bằng con đường hoà bình sang một xã hội tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, nhân ái và hợp lòng dân hơn mà ít tốn xương máu, thì ai lại nỡ lên án, thậm chí căm thù, dùng quyền lực mà triệt tiêu.
“Quân sư” cho “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam là Trần Thủ Độ. Nếu không có sự tận diệt con cháu nhà Lý cho chắc vương triều Trần vô cùng dã man thì đây là cuộc chuyển giao quyền lực đẹp nhất từ vương triều Lý đang suy vong sang vương triều Trần đầy sinh lực. Lịch sử không có “giá như”, nếu cho phép “giá như” thì tôi “giá như” không có cuộc phế lập bằng con đường “Diễn biến hoà bình” này, thì Đại Việt ta chắc khó bề đương nổi với đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh đang tung vó ngựa từ Đông sang Tây. Chính trong cái hoạ binh đao Nguyên Mông thế kỷ 13, dân tộc ta xuất hiện nhiều danh tướng và hiền tài cho tới hôm nay vẫn còn là những vì sao chói sáng trên bầu trời nhân loại.
Thật là một thiếu sót, nếu lịch sử quên cuộc phế – lập, “Diễn biến hoà bình” triều đại Lê Thánh Tông. Triều Lê Nhân tông tưởng suy bởi sự tranh giành quyền lực, các nhóm triều thần gian xảo làm những cuộc đảo chính, lập thái tử Nghi Dân lên ngôi. Nhưng chỉ 6 tháng sau, cuộc “Diễn biến hoà bình”của các đại thần còn chút lòng yêu nước thương nòi đã lập Tư Thành lên ngôi, hiệu là Lê Thánh tông. Khác với các vua trước cùng thời, Lê Thánh Tông tỏ rõ bản lĩnh và đức độ của một đấng anh quân, đã khai sáng triều đại mình.
Cho đến hôm nay, là người Việt, dù có đi bốn phương trời, nhưng không ai không tự hào về đất nước nghìn năm văn hiến của mình. Nhưng cái gốc của nghìn năm văn hiến khởi nguồn từ đâu? Tôi nghĩ có thể nó bắt đầu từ đời Lý với việc định đô ra Thăng Long của Lý Thái tổ, với việc lập Văn Miếu của Lý Thánh Tông… Nét Văn hoá từ bi hỷ xả sâu đậm nhất ở thời kỳ này.
Văn hiến thời Trần là Hội nghị Diên Hồng, tìm sự đồng lòng trong công cuộc chống kẻ thù mạnh hơn ta trăm lần, nghìn lần, là “Sát thát!” với kẻ thù, là văn hoá độ lượng dung tha, gác lại quá khứ hướng về tương lai của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông sau khi thắng trận. Một nét văn hoá đậm tính nhân văn của cha ông một thời cực đẹp vậy mà ở thời hiện đại nhiều nhà lãnh đạo của chính thể mới lại e dè, lo ngại và hướng về tư tưởng bảo vệ vương triều hơn là tư tưởng nhân văn thời Trần. Điều đó tạo nên sự hận thù của người trong một nước, chứ không hề nghĩ về Hội nghị Diên Hồng, nghĩ về hai chữ “Sát thát!”, về khoan dung. Nói cách khác, ý thức hệ đã đẩy chủ nghĩa nhân văn ra khỏi tầm với của nền văn hiến có tự ngàn xưa! Mối nguy hiểm mà cha ông thời nào cũng cảnh giác là đưa đất nước xích lại gần hơn với kẻ thù và đẩy nhân dân ra khỏi tầm của Hội nghị Diên Hồng.
Nhưng nét văn hiến nghìn năm đậm nét nhất là ở văn hoá đời Lê với tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, tư tưởng “Tâm công sách” của nhà văn hoá kiệt xuất này. Sau Nguyễn Trãi là Lê Thánh tông. Đây là một vị vua để lại sau mình nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lớn nhất trong các triều đại. Ngoài việc “định phép thi hương, sửa phép thi hội” nhằm chọn hiền tài cho đất nước, danh xưng tiến sĩ bắt đầu từ triều đại này. Trong văn bia đời Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung để lại cho hậu thế những câu bất hủ: “… Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.” Với 24 điều dạy của vua Lê Thánh Tông, chúng ta cảm nhận được giá trị của một nền văn hoá cốt lõi của Việt Nam hôm nay: nền văn hoá lấy dân làm trọng, quan lại là nô bộc của dân, ý dân là ý Trời. Và cũng bắt đầu từ vua Lê Thánh Tông, cương vực lãnh thổ, trên bộ, trên biển đảo được các quan sở tại trình báo chi tiết từ nơi mình ở có núi, sông, hồ, biển đảo, … lên triều đình để lập địa đồ cho nước được chính xác. Ngài còn căn dặn các tướng sĩ: 
“Ta phải gìn giữ cho cẩn thận đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Rổ để lại .”
Trần Trọng Kim viết trong “Việt Nam sử lược”: “… Xem những công việc của vua Thánh Tông thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn thời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hoá nước ta mới thịnh.”
“Diễn biến hoà bình” không phải như những gì người ta gán ghép
Lật lại lịch sử phát triển Việt Nam ta thì “Bạo lực cách mạng” thường xảy ra khi cần lật đổ ách đô hộ của kẻ thù dân tộc, còn hầu hết những chuyển hoá các triều đại đều là từ việc phế – lập mà ngày nay gọi là “Diễn biến hoà bình”. Đấy cũng là sự vận động khách quan của quy luật. Không hiểu từ cơ sở nào mà có người lại định nghĩa: “’Diễn biến hoà bình’ là một trong những chiến lược có ý nghĩa và phạm vi toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50, hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhằm chống các nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào tiến bộ trên thế giới…” (Báo điện tử của Đảng CSVN).
Quả thật tôi chưa bao giờ dám nghĩ có một Thánh nhân nào đó lại có thể lật đổ được CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Bởi lẽ các chế độ này qua một bộ máy tuyên truyền lớn nhất trong mọi thời đại đã bám rễ sâu từ trung ương đến tận hang cùng ngõ hẻm các làng xã trên 50 năm ở các nước Đông Âu và 70 năm ở Nga. Hơn một lần tôi nói trên mạng Internet rằng sự sụp đổ ấy bắt nguồn từ ý chí chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo các nước XHCN. Chính họ đã bất chấp quy luật tiến hoá của lịch sử phát triển loài người. Sau trên 2 thập kỷ, tôi chưa thấy Đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trở lại nắm quyền lãnh đạo ở nước họ – mặc dù chế độ mới ở các nước ấy không cấm Đảng cộng sản hoạt động. Vì vậy, một Khrutsov, một Gorbachev không thể có sức mạnh siêu phàm nào để giữ cái chính quyền ra đời từ ý chí luận của các bậc tiền nhiệm! Nói cách khác, Khrutsov nhận ra tính không tưởng của thể chế mà họ đang dắt nhân dân Nga đi, nhưng đến Gorbachev nhận ra sự bất đồng quyết kiệt của nhân dân Nga với chính quyền mà ông là đại diện, và sự chuyển biến của ông nằm trong cái thế tất yếu của lịch sử.
Những cuộc “Diễn biến hoà bình” gần đây nhất là những cuộc cách mạng mang tên hoa nhài ở các nước Bắc Phi. Những cuộc xuống đường của nhân dân đã buộc những nhà lãnh đạo cao nhất, từng có thâm niên trị vì nước họ, phải từ chức, hoặc phế bỏ. Ai cưỡng lại sức mạnh của nhân dân, người đó hãy noi gương Gaddafi ở chiếc cống ngầm!
Nhưng tôi lại thiện cảm với đất nước Miến Điện. 40 năm trong chế độ quân phiệt, nhưng dân tộc này lại “Diễn biến hoà bình” theo đúng nghĩa của cụm từ trên để lột xác thành một nước tự do, dân chủ và nhân quyền đích thực, những nhà chính trị khác chính kiến đã được tự do ra khỏi trại giam và tiếp tục hoạt động trở lại. Người tù nhân tiêu biểu là bà Suu Kyi. Báo chí và xuất bản đã được tháo “vòng kim cô” định hướng, khống chế và kiểm duyệt. Dân được quyền ra báo và xuất bản, lập hội, biểu tình, … như những gì mà Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải trao cho nhân dân VN từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước. Vậy mà hôm nay Quốc hội VN vẫn chưa thông qua được luật xuất bản trong đó tư nhân được lập nhà xuất bản. Còn Miến Điện thì …coi đó là chuyện tất yếu để trở thành một nước dân chủ.
Công lao vĩ đại này trước tiên thuộc về tổng thống Thein Sein.
Lịch sử các triều đại chứng minh, những kẻ nắm quyền lực, thường có xu hướng giữ chặt quyền lực, tăng thêm uy quyền để dễ trị vì dân chúng, và vì vậy trường hợp vị tổng thống đương nhiệm Thein Sein là một ngoại lệ. Hành động của tổng thống Thein Sein chắc chắn được nhân dân thế giới tôn vinh như là bậc vĩ nhân của thời hiện đại, dám chia xẻ quyền lực, đúng hơn là trao lại quyền lực về tay nhân dân, làm một tấm gương cho không ít nhà lãnh đạo một số nước đang còn mê muội bởi quyền lực, coi nhân dân như những tù nhân của chính mình dưới lớp vỏ hào nhoáng: Chính quyền của dân, do dân, vì dân!
Việt Nam thời hiện đại vẫn còn đó những tấm gương trung dũng kiên cường, học rộng tài cao chí lớn …mưu lược một thời. Ở đây tôi xin nhắc đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc. Cả ba nhà chí sĩ này theo 3 con đường cứu nước khác nhau. Phan Bội Châu thì nhờ đồng lân, đồng chủng là Nhật Bản giúp ta chống Tây. Phan Chu Trinh theo con đường “thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấy rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền …” (Thư của Phan Chu Trinh gởi Nguyễn Ái Quốc ở Marseille 18-12-1922). Còn Nguyễn Ái Quốc thì theo Quốc tế 3. Ở đây tôi không đề cập đến nội dung của hai con đường cứu nước(giữa PCT và NAQ) mà tôi chỉ nói tới phương pháp cách mạng không đồng nhất giữa hai người, cũng trong thư PCT gởi NAQ: “…từ thời xưa tới nay, từ Á sang Âu chưa có một người nào làm cái việc như anh (NAQ), anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lí thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội”. 
Nhưng cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thành công. Cuộc Cách mạng tháng Tám dựng lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với Tuyên ngôn độc lập, Bản hiến pháp năm 1946 … là sự tích luỹ bao kinh nghiệm, bài học, thành quả của nhân loại tiến bộ cho tới thời ấy mà Nguyễn Ái Quốc có được.
Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tấn công chính quốc ngay trên chính quốc. Và khi có điều kiện thì về nước. Cuộc “Diễn biến hoà bình” cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và mai phục từ những năm 20 của thế kỷ 20. Rất tiếc sau đó cuộc “Diễn biến hoà bình” lại trở thành “Bạo lực cách mạng” do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, mà hôm nay chưa dễ có sự đồng thuận của nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, học giả trong và ngoài nước. Nhưng nhìn vào thực tế thì ai cũng thấy Quốc tế 3 thất bại và Quốc tế 2 thành công ít nhất là ở các nước Tây Âu. Lãnh tụ của Quốc tế 2 là Enghen. Những năm cuối đời, Enghen nhìn thấy sai lầm của chủ nghĩa L.A. Blanqui (lãnh đạo thuộc phái bạo lực trong Quốc tế 1): Dựa vào bạo lực cách mạng là có thể tạo ra một xã hội không có áp bức và bóc lột! “…Tuy nhiên, đừng tưởng đó là toàn bộ nền chuyên chính của toàn bộ giai cấp cách mạng tức là giai cấp vô sản, mà là chuyên chính của số ít người …số người này lại phục tùng chuyên chính của một hoặc vài người” (Toàn tập Marx-Enghen, cuốn 18, tr 580-581 bản Hoa văn). Thời hiện đại TBT Ziuganov cho rằng: “Nguyên nhân cơ bản khiến Liên Xô và Đảng cộng sản sụp đổ là sự lũng đoạn đối với tài sản, quyền lực và chân lý”. Ở đây không có kẻ thù địch và “Diễn biến hoà bình” nào cả!
Cái giá của “Bạo lực cách mạng” và nền văn hiến Đai Việt thời hiện đại
Tôi nghĩ giá như – lại giá như – chúng ta đứng trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc như hầu hết các nước ở Đông Nam Á thì biết đâu chúng ta tránh được cuộc “Bạo lực cách mạng” kéo dài suốt 30 năm cùng với những cuộc cách mạng gọi là “dân chủ” gây ra cho dân tộc chúng ta bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, hàng bao nhiêu triệu gia đình tan nát, mẹ mất con, vợ mất chồng, anh mất em, những cuộc ly tán mất nhà mất cửa mất cả quê hương. Một thứ văn hoá phi văn hoá làm đảo lộn văn hoá trong sáng của người Việt được giữ gìn trong trường kỳ lịch sử, qua các cuộc giảm tô, cải cách ruộng đất, cải tao tư sản. Con người Việt thời cách mạng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù … Con tố cha, vợ tố chồng, anh tố em. Cho đến tận hôm nay kẻ thù lại mai danh ẩn tích trong “Diễn biến hoà bình”, còn chính kẻ thù đã và đang cướp biển đảo của ta thì gọi là đồng chí vàng, bạc! Thế hệ chúng tôi lớn lên trong cách mạng, số còn sống hôm nay vẫn không hiểu đây là thứ văn hoá gì? Cho đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in lời dạy của vua Trần Nhân tông lúc tôi còn là sinh viên: “Các người chớ quên ,chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họạ lâu đời của ta là họạ Trung Hoa…”(Di chúc của Trần Nhân tông).
Cốt lõi của một dân tộc là văn hoá chứ không phải là đất rộng hay hẹp, nhiều tài nguyên hay ít tài nguyên, không phải người đông hay thưa. Tất cả chỉ là chất xúc tác để tạo ra bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc văn hoá ấy nông hay sâu, dày hay mỏng, rộng hay hẹp, đa tầng hay ít tầng… sẽ quyết định tâm thức của dân tộc ấy. Tâm thức văn hoá quyết định sức mạnh của một dân tộc, quyết định cả sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta tự hào nghìn năm văn hiến là dựa trên cái cốt lõi của một nền văn hoá được vun xới, bồi đắp qua hàng nghìn năm dựng nước và mở cõi của tiền nhân, tạo thành nhân cách của một dân tộc. Nhân cách ấy là bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một dàn, là lá lành đùm lá rách, là anh em như thể tay chân, là người trong một nước phải thương nhau cùng – trong ca dao, tục ngữ. Là lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo, là việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi. Là quyền biến, lúc bình thì khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc – Trần Hưng Đạo.
Giá trị của văn hoá là giá trị tiềm ẩn, mang đậm dấu ấn riêng của một dân tộc. Theo UNESCO thì “Văn hoá là hệ thống tổng thể những giá trị biểu trưng quy định cách ứng xử, thái độ giao tiếp của một cộng đồng và làm cho cộng đồng đó có đặc thù riêng”.
Tóm lại “Diễn biến hoà bình” xuất hiện tự thời cổ đại thường được gọi là phế – lập, khi xã hội loài người có vương quyền (có kẻ cai trị và người bị trị). Nó là sự vận động khách quan của các mối quan hệ giữa người và người, giữa kẻ thống trị và người bị trị, hoàn toàn không phải là khái niệm của “kẻ thù gần đây”. Sự vận động ấy hướng tới một định chế hợp xu thế thời đại, hợp lòng dân hơn và vì vậy nó là sản phẩm của sự tiến bộ. Nó đồng thời cũng cảnh cáo mọi sự bảo thủ, hám quyền và chuyên quyền! Bước tiếp theo của chuyên quyền là độc quyền. Từ độc quyền đến độc đoán, độc tài, quân phiệt, … là một bước ngắn. Một học giả phương Tây đã khái quát những xã hội chuyên chế rằng: “Một đất nước kỳ lạ khi nó nhìn mọi sự thay đổi như một sự tấn công, mỗi biến chuyển như là một sự giật lùi và mọi sự thích nghi như những cuộc đầu hàng” (theo báo Gilles Delafon trích trong cuốn Hello Earth).
Không một nhân dân nào chấp nhận sự chuyên chế và độc tài. Chuyên chế và độc tài là kẻ thù của nền dân chủ. Phan Bội Châu đã từng nói:“Không có dân thì đất đai không thể còn ,chủ quyền không thể lập ;nhân dân còn thì nước còn. Nhân dân mất thì nước mất. Muốn xem nhân dân còn mất thế nào thì nhìn xem cái quyền của người dân còn mất thế nào?”
Bình tâm nhìn lại, hôm nay người dân còn được quyền gì? Nhân dân có trăm tai nghìn mắt, không nhà cầm quyền nào đánh tráo được giữa sự bạo ngược và lòng nhân ái. Hồ Chí Minh đã từng lo sợ về một nhà nước mà ông là người sáng lập, đất nước ấy, dân chủ là kẻ thù của nền chuyên chính vô sản: “Các chú diễn giải hai tiếng dân chủ sao mà rắc rối, dài dòng thế?Dân chủ thực ra có nghĩa là: Để cho dân được mở miệng. Dân chủ là đừng bịt miệng dân.” Đúng, trong trường hợp này Hồ Chí Minh là một thiên tài. Ông tiên đoán chính xác sự bất bình thường của “đứa con” mà mình “mang nặng đẻ đau”.
Và vì vậy hôm nay nếu có “Diễn biến hoà bình” thì đấy chính là sự chuyển hoá một cách ôn hoà trạng thái vô tổ chức, trên nói dưới không nghe, tình trạng cát cứ có dấu hiệu phục hồi, tham nhũng, mua quan bán chức,… từ hiện tượng đang trở thành bản chất của chế độ, lòng tin của dân với đảng cầm quyền suy giảm đến mức báo động, thì sự chuyển biến ấy chính là đại phúc cho nhân dân, chứ có gì mà phải … sợ? Và dẫu anh có sợ cũng không được. Hãy gia cố con đê trước khi nước tràn! Khi nước đã tràn thì có Thánh cũng chịu!
Ổn định và trì trệ
Cái dễ của nhà cầm quyền là vui vẻ, là hài lòng trước quyền lực của mình ngày hôm nay, và mong xã hội ổn định mãi như ngày hôm nay để tiếp tục giữ quyền lực.
Cái khó của nhà cầm quyền là dám nghe những phản biện và tự vượt lên chính mình ngày hôm nay để theo kịp sự chuyển hoá khách quan của xã hội – sự chuyển hoá cần thiết cho sự tồn tại và phát triển đất nước trong đó có mình và dòng họ mình. Điều ấy lý giải vì sao ngay cả thời phong kiến nhà vua vẫn phải chấp nhận “Giám sát ngự sử” bên cạnh mình. Thực tế chứng minh vương triều nào can đảm lắng nghe lời can gián, những lời “nghịch nhĩ” điều chỉnh phương pháp trị dân của mình thì xã hội lành mạnh hơn. Đấy mới là sự ổn định thực thông qua “Diễn biến hoà bình” chính tư duy của mình. Không ít nhà lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam chưa nhận thức đúng học thuyết Marx về ổn định đồng nghĩa với trì trệ. “Thực chất cách mạng của phép biện chứng duy vật không dung hoà với bất cứ sự trì trệ và bất động nào, làm cho phép duy vật trở thành công cụ cải tạo thực tiễn xã hội, giúp tính toán một cách khách quan tới những yêu cầu lịch sử của sự phát trển xã hội, tình trạng những hình thức cũ không phù hợp với nội dung mới, sự cần thiết phải chuyển đến những hình thức cao thúc đẩy sự tiến bộ của loài người…” (Từ điển triết học – nxb VH TT 2002, tr 84).
Hãy nhìn sự ổn định của xã hội VN và các nước theo chúng ta là không ổn định như Thái Lan, Nhật Bản,… thì ai cũng dễ đồng tình xã hội của họ vẫn phát triển vượt xa chúng ta nhiều, nhiều lắm.
Chúng ta đánh đổ phong kiến, chúng ta đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đâu phải để xây dựng một xã hội ổn định theo kiểu không có phản biện hay phản biện giả. ( Phản biện giả là phản biện có sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.) Có ai đó chê Hoàng đế Quang Trung là độc tài quân phiệt, nhưng tôi chưa thấy tài liệu nào nói Ông bắt giam, bỏ tù một ai mắc tội vu khoát. (Trong Chiếu cầu lời nói thẳng Quang Trung mong nhận được những lời nói thẳng, nói thực, không bắt tội vu khoát một ai). 
Vậy mà hôm nay chính tôi lại nhìn thấy bao nhiêu người yêu nước bị bắt, bị giam cầm chỉ vì yêu nước mà không chịu yêu CNXH, chỉ vì có chính kiến khác với chính thống. Trong thực tế Marx chưa bao giờ đồng nhất yêu nước và yêu CNXH! Và với CNCS, Marx cũng chỉ dám dự đoán thôi.
Những nhà lãnh đạo hôm nay nên dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế để thấy phong kiến và đế quốc thối nát thực, nhưng chúng nó vẫn cho những người yêu nước, những người cộng sản ra báo tư nhân, lập nhà xuất bản tư nhân, dân được lập hội và biểu tình phản đối chúng nó. Năm 1925 Phan Chu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, và sau đó không lâu ông tổ chức diễn thuyết lên án chính quyền. Năm 1925 cụ Phan có ít nhất 2 lần diễn thuyết ở Sài Gòn. Và ngày 26 tháng 3 năm 1926, khi ông qua đời, gần một nửa dân Sài Gòn đi dự đám tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh mà không ai bị bắt bớ, tù đày. 96 năm sau ngày cụ Phan ra đi vĩnh viễn, bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm giữa thềm nhà hát Lớn Sài Gòn lên án Trung Quốc xâm chiếm biển đảo thuộc chủ quyền VN thì bị công an xua đuổi cùng nhiều trí thức tên tuổi như nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Tương Lai, kiến trúc sư Trọng Huấn. Hai thể chế đối lập ấy, người dân thường cũng biết đối chiếu so sánh dễ dàng huống chi là những trí thức tầm cỡ như GS Hoàng Tuỵ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Phan Đình Diệu, GS Ngô Bảo Châu, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Nguyễn Huệ Chi, GS Tương Lai, BS Huỳnh Tấn Mẫm, … để từ đấy lãnh đạo nhà nước hôm nay nên coi “Diễn biến hoà bình” hoàn toàn không phải là kẻ thù địch nào cả mà sự trì trệ trong chính những nhà lãnh đạo của Đảng CS, là phương sách chuyển hoá tư duy chính mình và chuyển đổi xã hội phù hợp quy luật khách quan thì tự khắc lòng dân lại thuận.
Một thời chúng ta đã từng quy kết và dùng nhục hình dã man với bao nhiêu người có công với cách mạng, những dân oan vô tội, tôi mong những người nắm quyền lực hôm nay đừng đẩy những người yêu nước vào cái gọi là bọn thù địch “Diễn biến hoà bình” mà rơi vào những sai lầm đã khắc vào lịch sử trong quá khứ chưa xa những tội lỗi trời không dung đất không tha!( cụm từ của Nguyễn Trãi).
Thay lời kết
Tôi muốn gởi những dòng cuối này đến anh Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là đồng môn – tôi học trước anh hai khoá. Tuy là học một trường, nhưng tôi và anh có hai cách tiếp cận khác về CNXH. Tôi nghiêng về CNXH dân chủ của Lassall, còn anh theo CNXH bạo lực của Lénin. Nhưng tôi không nói chuyện đúng sai ở đây. Ở đây tôi chỉ mong với tư cách một người lãnh đạo Đảng, anh cố gắng giữ cho xã hội dưới thời anh trên dưới đồng lòng, coi dân làm trọng, xoá cách biệt giữa dân với Đảng, hết sức tránh dùng cường quyền và bạo lực đối với những người yêu nước khác chính kiến. Muốn vậy chính anh và những đồng chí của anh phải tự mình chuyển hoá tư duy hoặc là chấp nhận “Diễn biến hoà bình” (Không phải Diễn biến hoà bình theo định nghĩa của báo Điện tử ĐCS, mà theo truyền thống, hợp xu thế). Đấy là hai con đường ôn hoà nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và hợp quy luật khách quan .
Tôi tin anh làm được bởi trước anh đã có Trường Chinh một thời thiên tả, cứng nhắc, rồi đã tự phủ định mình hôm qua. Thời ấy kinh tế thị trường là cụm từ cấm kỵ, đồng nghĩa với xét lại. Ai dính vào cái “mũ” này thì coi như cuộc đời chấm dứt. Nói như thế để thấy vai trò vô cùng quan trọng của cụ Trường Chinh. Tôi mong anh học tập cố TBT Trường Chinh và mới đây là Thein Sein – người vừa được báo Straits Times Singapore tôn vinh nhân vật của châu Á năm 2012.
Bạn bè chúng ta thời đại học nói với tôi rằng kể từ khi anh lên chức TBT đã có hơn 50 người yêu nước bị làm khó dễ, bị bắt, bị giam cầm vì nhiều lý do vu vơ. Xã hội hôm nay dưới quyền anh làm tôi nhớ lại thời Nhân văn Giai phẩm ở trong nước thời hiện đại, và thời cổ đại Trung Hoa tôi lại nhớ thời Tống Thần tông, Vương An Thạch làm tể tướng. Vương là một người học rộng tài cao, một nhà thơ uyên thâm. Vậy mà dưới thời Vương An Thạch kẻ sĩ bị bắt, bị đi đày nhiều nhất. Một thi nhân như Tô Đông Pha chỉ vì không đồng chính kiến với Vương An Thạch mà gần suốt cuộc đời phải chịu đi đày, có lúc đói quá phải “hớp nắng” để đỡ đói trên đảo Hải Nam. Trên cái nền này tôi có viết cuốn “Thăng trầm Tô Đông Pha” (Nhà XB Văn nghệ TP HCM năm 2000) với hy vọng những nhà lãnh đạo VN hôm nay lấy đó làm bài học. Nhưng dường như người ta nghĩ nhiều về quyền lực và quyền lợi mà nhẹ về văn hoá – văn hoá đời Lê lấy chí nhân thay cường bạo, văn hoá đời Trần lấy khoan dung làm trọng.
Tôi nay đã ngoài 70, không hề biết sợ chết, chỉ sợ trước khi chết mà vẫn phải nhìn đất nước như thời Vương An Thạch!
Chắc anh thừa biết lịch sử không quên công lao một ai và lịch sử cũng không bỏ sót tội lỗi một ai.

Trường hợp điều 4 HP được hủy bỏ, ai sẽ là Hồ Cẩm Đào hay Eltsin Việt Nam?

Trường hợp điều 4 HP được hủy bỏ, ai sẽ là Hồ Cẩm Đào hay Eltsin Việt Nam?

Trường hợp điều 4 HP được hủy bỏ, ĐCSVN thay đổi thể chế: Giữa bộ ba Tổng Trọng, Ba Dũng, Tư Sang, ai sẽ là Hồ Cẩm Đào hay Eltsin Việt Nam?
imagesĐCSVN luôn luôn lí luận sở dĩ Liên Xô sụp đổ là vì Gorbatchev và Eltsin đã bị Mỹ diễn biến hòa bình. Theo PGS-TS Trần Đăng Thanh, Eltsin là người đã triệt hạ đảng Cộng sản Liên Xô khi “đưa ra hai quyết định: Một, cấm đảng cộng sản hoạt động. Hai,, là không trả lương cho những người tham gia chính quyền Xô Viết”. Còn PGS-TS Nguyễn Tiến Bình thì đổ tội cho Gorbatchev đã tách Đảng khỏi quân đội, khiến quân đội như rắn mất đầu: “ngày 19-8-91 (Gorbatchev) ra lệnh giải tán các cơ quan chính trị và từ 1-9-91, chấm dứt mọi hoạt động của Đảng trong quân đội Liên Xô. Đó là nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô Viết vào cuối năm 91 mặc dầu quân đội Liên Xô có tới 3,9 triệu quân nhưng do bị biến chất chính trị nên mất sức chiến đấu”.
Những dẫn chứng này hoàn toàn sai lạc. Có thể vì cố ý, nhưng cũng có thể vì ĐCSVN đã tự lừa dối mình. Có điều là chỉ cần kết hợp những lập luận này với những tham luận tại Hội thảo ” Bảo vệ chính trị nội bộ, chống diễn biến và tự diễn biến” họp ngày 27-12-12, thì thấy ngay là sự sụp đổ quá mau chóng của Liên Xô vẫn ám ảnh ĐCSVN và phái Bảo thủ trong Đảng vẫn lo sợ cái thế lực thù địch “trời không dung đất không tha” sẽ lại chơi trò diễn biến hòa bình ở thượng tầng lãnh đạo Đảng như đã làm với ĐCSLX. Đòi hủy bỏ điều 4 trong Hiến pháp 92 là đòn hiểm đầu tiên của “Thế lực thù địch” để phá bỏ bộ máy “Lãnh đạo” của Đảng, thật ra là của phái Bảo thủ.
Cũng chính vì vậy mà phái Bảo thủ “Lãnh đạo” đứng đầu là TBT Nguyễn Phú Trọng thấy dù phải hi sinh quyền lợi đất nước đến đâu, cũng phải dựa vào Tàu để duy trì điều 4 bảo vệ bộ máy lãnh đạo để giữ được quyền hành và có quyền là có lợi. Bởi vậy điều 4 là sinh tử lệnh của phái Lãnh đạo : hủy bỏ điều 4 là (phái Lãnh đạo) tự sát.
Trái lại, phái “Cầm quyền” – thật ra chỉ là phái hoạt đầu – đứng đầu là TT Nguyễn Tấn Dũng thấy hướng về Mỹ và Tây phương kiếm được nhiều lợi hơn và có lợi là có quyền, nên thấy nếu có thể hủy bỏ được điều 4 để độc giữ được quyền hành thì càng tốt.
Mỹ và Tàu đều biết thóp như vậy nên cả 2 đều tìm cách diễn biến 2 phái trong Đảng. Trong sự giằng co giữa Mỹ và Tàu, trong nội bộ ĐCSVN lại nẩy sinh thêm 1 phái thứ ba: phái Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Phái “Chủ tịch nước”, chơi vơi giữa 2 phái, thấy cần phải tạo chỗ đứng cho mình bằng cách giương cao những chiêu bài mị dân như: Giữ thế trung lập không nghiêng về Mỹ cũng chẳng nghiêng về Trung Quốc. Liên minh với Ấn Độ và các nước trong khu vực. Thắt chặt mối dây thân cận với nhân dân (cử tri) miền Nam. Cổ võ người dân tự đứng lên “diệt sâu” bài trừ tham nhũng…
ĐCSVN đang từ “một đảng 2 đầu” nay lại thêm đầu thứ 3 nên mất cân bằng, không còn có thể giữ nguyên tình trạng (statut quo), bắt buộc phải chuyển hóa.
Nhưng chuyển hóa theo hướng nào?
Có những người quá lạc quan cho (Mỹ) có thể diễn biến ĐCSVN đi theo hướng Myanmar: Tập đoàn quân phiệt Myanmar cũng chả khác gì một đảng Cộng sản và trong mấy chục năm cũng nằm trong quỹ đạo của Tàu. Nhưng chỉ cần hỏi những người này: ai là Aung San Suu Kyi Việt Nam để có đủ uy thế quốc tế và hậu thuẫn nhân dân đối chọi với Cộng sản? Và ai sẽ là một Thein Sein Việt Nam?
Trái lại trong ĐCSVN cũng có người nghĩ như PGS-TS Trần Đăng Thanh: nên học tập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên để, vừa có ổn định chính trị trong chế độ Mác-Lênin – cha truyền con nối, vừa làm cả thế giới khiếp sợ vì có bom nguyên tử, có tên lửa xuyên lục địa, tuy dân không có cơm ăn và cán bộ xuất ngoại phải thay phiên nhau mượn áo như hồi Đảng ta đi hội đàm ở Hội nghị Paris. Nhưng vị tiến sỹ này không biết là bom nguyên tử và tên lửa cũng là của Trung Quốc đưa cho Bắc Hàn để dọa Nhật Bản và Hàn Quốc chứ những nhà “khoa học” Bắc Cao, chữ nghĩa giả thày từ thời còn mồ ma Liên Xô, làm sao làm được bom nguyên tử với hỏa tiễn xuyên lục địa! Nhưng cái khó khăn hơn hết là kiếm đâu được những ai là cháu Bác Hồ để Đảng chọn một người cho lên ngôi?
Chỉ còn 2 hướng: hoặc hướng Trung Quốc – Hồ Cẩm Đào hoặc hướng Nga – Eltsin.
Cả 2 hướng đều đòi hỏi phải bỏ khái niệm “Đảng lãnh đạo” trong điều 4 HP 92 và thay vào đó một thể chế “chủ tịch nước lãnh đạo”.
Đó là điều Đặng Tiểu Bình đã làm khi thay “Đảng Lãnh đạo” nằm trong Hiến pháp 1975 bằng “Chủ tịch nước kiêm TBT Đảng”: Trong bản Hiến pháp được sửa đổi của Trung Quốc năm 2004 (1 năm sau khi Hồ Cẩm Đào lên cầm quyền), không hề có điều khoản nào trong số 138 điều khoản cho D0CSTQ quyền lãnh đạo. Chỉ trong Phần mở đầu (Préambule) là nói đến vai trò “lãnh đạo” (direction) của ĐCSTQ: “tập hợp mọi đảng dân chủ và các tổ chức nhân dân” Theo nghĩa này, Hiến pháp Trung Quốc công nhận đa đảng và “lãnh đạo” chỉ có nghĩa là “tập hợp”. Ngay đến từ ngữ “chủ nghĩa Mác – Lênin” cũng chỉ được nhắc đến trong Phần mở đầu và được lồng trong đoạn nói về lịch sử (diễn tiến tư tưởng chính trị) Trung Quốc đi từ chủ nghĩa Tân dân chủ của Tôn Trung Sơn sau Cách mạng Tân Hợi, qua Tư tưởng Mao Trạch Đông, lí thuyết Đặng Tiểu Bình, ý tưởng 3 thành phần (của Giang Trạch Dân).
Nhưng cũng đừng lầm tưởng là Trung Quốc hoan nghênh chế độ CSVN cải tổ theo hướng Trung Quốc: Tàu bao giờ cũng muốn có 2 phái trong ĐCSVN để dễ bề thao túng – và ngay cả Mỹ cũng vậy – Bởi vậy, duy trì điều 4 cũng là ý muốn của Tàu. Đó cũng là lí do vì sao từ 2 năm nay những người thức thời trong ĐCSVN muốn xóa bỏ điều 4 để đổi mới chính trị (chứ không phải vì bị Mỹ diễn biến) đều thất bại: Điều 4 vẫn nằm chình ình trong bản Dự thảo sửa đổi HP 92 mới được trưng ra.
Những người muốn xóa bỏ điều 4 tìm cách đi vòng quanh chướng ngâi vật bằng cách đưa ra nghị quyết hỏi ý người dân “không cấm kỵ kể cả điều 4″ trong thời hạn từ 2-1 đến 31-3-13 với hi vọng là trong thời gian 3 tháng tuyệt đại đa số những người góp ý sẽ đều tỏ ý muốn bỏ điều 4 và như vậy đủ làm áp lực bắt buộc phe TBT phải bỏ điều 4.
Nhưng TBT Nguyễn Phú Trọng đã lập tức phản công: ra chỉ thị huy động công an, quân đội đe dọa những ai lấy cớ góp ý dám đụng tới “nó”. Với chỉ thị này TBT Nguyễn Phú Trọng chứng tỏ vẫn muốn giữ nguyên điều 4 “Đảng lãnh đạo” để các bè phái nấp sau đó tiếp tục chia nhau quyền hành quyền lợi và tiếp tục được sự ủng hộ của Tàu.
Trước sự đe dọa bị đàn áp, ai là người có đủ dũng cảm dám đưa ý kiến chống đIều 4? Rút cục điều 4 sẽ vẫn được duy trì và phái thứ Ba sẽ bị vô hiệu hóa để Đảng trở lại nguyên trạng (statut quo) “1 Đảng 2 phái” Lãnh đạo và Cầm quyền.
Nhưng thử đưa ra giả thiết là thế cờ bị lật ngược:
Phái Chủ tịch nước và phái Thủ tướng liên minh với nhau để hạ phái TBT vì cùng chung một ý nghĩ là phải bỏ điều 4 để làm như Đặng Tiểu Bình: nhập 2 chức vụ Chủ tịch nước và TBT Đảng với nhau, thống nhất Đảng, biến Đảng thành công cụ của chủ tịch nước như ở bên Tàu. Phái Tổng Trọng bị thua sẽ tan rã. Chỉ còn 2 phái kình địch nhau là phái Ba Dũng và phái Tư Sang tranh nhau ngôi vị Chủ tịch nước kiêm TBT Đảng:
Giả thử phái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dựa vào Công an và các thế lực kinh tài thắng thế:
Khả năng Thủ tướng NTD đổi ngôi trở thành một chủ tịch Hồ Cẩm Đào Việt Nam sẽ rất lớn. Nhưng nếu không thay đổi triệt để đường lối đối ngoại thì Việt Nam sẽ trở thành cái bung xung của cả Tàu và Mỹ, đồng thời cũng có rất nhiều người lo ngại chế độ công an trị sẽ khắc nghiệt hơn, tham nhũng sẽ hoành hành dữ dội hơn.
Giả thử phái Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được sự ủng hộ của quân đội và nhân dân miền Nam cũ thắng thế:
Người có vẻ có tầm vóc trở thành một Eltsin Việt Nam là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Nhưng khó có thể biết Tư Sang có ngầm nuôi ý định trở thành một Eltsin không, hay cũng chỉ là một bị thịt, chỉ có khả năng nhìn thấy mấy con sâu và vẫn cho Gorbatchev và Eltsin là những kẻ phản bội. Muốn trở thành một Eltsin, cần phải đọc lại một cách trung trực lịch sử Liên Xô cuối thập niên 80 để biết chế độ cộng sản Liên Xô đã bị mục tới xương nên đã tự tan rã mặc dầu Gorbatchev cố gắng cứu mà không nổi. Eltsin là người đành để ĐCSLX chết để cứu nước Nga và Liên bang Nga trước đã. Khi đã cứu đươc Liên bang Nga rồi, Elsin mới nghĩ đến chuyên khôi phục lại được một phần lãnh thổ Liên Xô khi trước mà nay gọi là CEI. Nói tóm lại Eltsin chỉ tiếp tục sự nghiệp của các Sa hoàng và bây giờ Putin là người tiếp nối. Tôi nói vậy không có mục đích ca tụng Eltsin và Putin vì cả hai đều hiểu dân chủ theo ý của mình. Nhưng dầu sao nước Nga bây giờ cũng dân chủ gấp 1O lần thời Brejnev. Muốn có dân chủ thật sự, cần phải đấu tranh nhiều chứ chả ai ban cho.
Kết luận
Tình trạng ĐCSVN hiện giờ có khác gì ĐCSLX không ? Và nếu Chủ tịch Trương Tấn Sang là người thức thời thì sẽ thấy cái nước Nga của Việt Nam chính là miền Nam cũ. TTS muốn tạo cơ sở và lực lượng cho mình thì chỉ cần chinh phục tấm lòng người miền Nam cũ và dựa vào đó để thống nhất Việt Nam, bãi bỏ chế độ XHCN kiểu Mác – Lênin và thay vào đó một thể chế Dân chủ – Xã hội kiểu Marx – Engels. Làm được như vậy Trương Tấn Sang sẽ có cơ trở thành một Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ phá đổ cái thành trì “Lê Chiêu thống” của ĐCSVN là phái “Đảng Lãnh đạo” .

Hiệu Minh - Thư Lê Nin gửi Cua Times

Dear đ/c Cua Times – Привет Товарищ KUA
Bác Lê Nin viết thư này cho Cua Times từ Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moscow, nơi bác đã nằm trong lăng suốt 88 năm nay, tựa như người đang ngủ, theo dõi hậu thế đang học tập và làm theo di sản Mác-Lê.
Những gì đã thấy vài thập kỷ qua ở Liên Xô, Đông Âu và sau này ở nhiều nơi trên thế giới, bác thấy nhà thơ Goethe đã đúng “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi”.
Nhưng đây không phải là đề tài muốn bàn với các bạn trong email này.
Chả là vừa rồi, có mấy người Việt vào viếng Lê Nin. Họ đi vòng xung quanh quan tài và lầm bầm “Quái lạ, nước Nga vi phạm Nghị định 105/ND-CP về việc tổ chức tang lễ cán bộ, công chức, viên chức.”
Theo họ, Nghị định này có hai điểm đáng bàn (1) Lễ viếng tổ chức ở nhà tang lễ. Đưa tang và an táng thực hiện trong cùng một ngày. Ở địa phương không được quá 48 tiếng. (2) Linh cữu người từ trần không được để ô cửa có lắp kính trên nắp quan tài.
Bác nhỏm dậy định cãi. Nhưng ĐCS LX dưới sự dẫn dắt của Stalin đã qui định, người quá cố, dù là vĩ nhân, không được tham gia ý kiến. Phải nằm im để hậu thế dùng làm biểu tượng cho mọi mục đích.
Biết bao di huấn, lời dạy treo đầy trên tường, nhưng có ai nghe đâu. Một tay cầm phong bì đút lót, sau lưng là khẩu hiệu “cần kiệm liêm chính…”
Bác nằm đây đã gần một thế kỷ, chẳng bao giờ được an táng như mong muốn của cá nhân, là được chôn cất ở quê nhà cùng với mẹ và vợ tại Kazan.
Nhìn xung quanh thấy người đông nghịt, chợt phát hiện thêm, chiếc quan tài trong veo, không phải một nắp kính nhỏ mà toàn bộ bằng kính, xác hở từ đầu đến chân.
Trong cảnh trống trơn như thế, vì tôn trọng khách khứa ra vào, bác Lê Nin đây cứ phải nằm im như tượng sáp, không dám cựa quậy. Nhiều lúc mỏi lưng, mỏi chân, muốn trở mình cũng không được. Lãnh tụ cộng sản khổ cả khi đã chết.
Như vậy, việc dùng quan tài bằng kính, không an táng sau 48 tiếng, theo bác, Ban Quản lý Lăng Lê Nin đã vi phạm Nghị định 105/ND-CP ký ngày 17-12-2012. Mấy tay người Việt nói thế mà đúng.
Rồi đây thế nào cũng bị phạt tiền. Mà ĐCS Nga yếu quá rồi, tiền chả còn nhiều, èo uột hoạt động, làm sao có đủ số rúp mà nộp phạt.
Thi hài Lê Nin trong quan tài kính. Ảnh: internet
Thi hài Lê Nin trong quan tài kính. Ảnh: internet
Tuy hai quốc gia Nga-Việt chưa có hiệp định thỏa thuận khung về pháp luật và nghị định cấp Chính phủ, nhưng bác đoán, mấy cha quản lý ngu dốt về pháp luật bên Nga, nhưng tham lam, thế nào cũng mang cái NĐ này về thí điểm bên Moscow.
Sau đó chưa chừng, mafia Nga còn gợi ý các đồng chí quốc tế bên Trung Quốc, Triều Tiên, học tập và làm theo.
Cán bộ sa lông máy lạnh chẳng nghĩ gì đến vệ sinh môi trường, tập quán của dân, mà có khi đưa ra NĐ sơ hở là dịp kiếm tiền. Dân trí thấp nên dễ vi phạm.
Con cháu đi xa, bố mẹ chết phải đợi chúng về nhìn mặt lần cuối rồi mới chôn. Có đứa ở bên tận DC, bay 2 ngày mới về đến Hà Nội (à quên Moscow), thế là quản lý đến xin tiền trong lúc tang gia bối rối.
Chưa hết, muốn cho con nhìn mặt cha, người nhà phải làm miếng kính trên nắp quan tài. Chả lẽ nó về, quan tài đã đóng, lại cậy ván thiên cho nó nhìn bố à.
Thế là vi phạm, quan đến, vừa viếng, tranh thủ ăn cỗ, rồi chơi tá lả, sát phạt tổ tôm, vừa đưa hóa đơn phạt, lợi đủ đường.
Mặt khác nguy hại hơn, để thực hiện triệt để qui định đó, các bạn có biết hậu quả là gì không. Đó là tất cả các lãnh tụ vô sản đang nằm trong quan tài bằng kính như Lê Nin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Kim Nhất Chính và vài đồng chí X, Y sẽ bị thay bằng quan tài gỗ và đem ra khỏi lăng.
Đối với từng cá nhân, đó là niềm vui. Vì lãnh tụ, dù vĩ đại đến đâu, lúc chết cũng muốn về với đất trời như một lẽ tự nhiên. Chẳng ai muốn nằm trong lăng cô độc, lạnh lẽo. Thỉnh thoảng còn bị lôi ra tắm rửa, cắt móng chân, móng tay, chả khác gì người sống.
Bác chỉ lo cho người danh xưng vô sản, nay đã tư bản hóa hoàn toàn, tiền của gửi bên Thụy Sỹ, con cái đưa sang Mỹ, của chìm nổi khắp nơi. Họ không biết nương tựa vào đâu, khi làm sai trái, muốn bảo vệ lợi ích nhóm, không còn ai lôi ra làm bình phong che chắn.
Viết thư này xong, chẳng biết buồn hay vui. Thôi, bác Lê Nin dừng bút, và đi vào hiệu cắt tóc.

Blogger Người Buôn Gió bị CA bắt cóc mất tích

Cập nhật: Lúc 18 giờ chiều nay, 10/1/2013, công an đã phải thả blogger Người Buôn Gió. Tuy nhiên, ngày mai vẫn bị triệu tập lên cơ quan CA 'làm việc'.

CTV Danlambao - Blogger Người Buôn Gió, tên thật là Bùi Thanh Hiếu đã bị công an Nghệ An bắt cóc mất tích từ hôm 8/1 đến nay. Khi bản tin này được đưa lên (lúc 14h30, ngày 10/1/2013), gia đình và bạn bè vẫn không có bất cứ thông tin rõ ràng nào về tình trạng hiện nay của anh.

Người Buôn Gió bị bắt sáng hôm 8/1, tại khách sạn Thành An, TP Vinh khi anh chuẩn bị đến theo dõi phiên tòa ‘công khai’ xử 14 người yêu nước. Hai người cùng bị bắt với Người Buôn Gió là anh Nguyễn Lân Thắng và Trương Văn Dũng đã được thả ra sau khi kết thúc phiên tòa. 
Vài phút trước khi bị bắt, hình ảnh cuối cùng do Blogger này gửi lên facebook ghi lại cảnh hàng chục dân phòng đổ quân đến khách sạn nơi anh đang ở để bao vây vòng ngoài, bên trong thì công an ập vào bắt người phi pháp. Video ghi lại cảnh này cũng đã được đưa lên Youtube. 
Hình ảnh cuối cùng trên facebook Người Buôn Gió ghi lại cảnh dân phòng đang kéo đến bao vây khách sạn anh đang ở
Trước đó, từ đêm 7/1 đến rạng sáng ngày 8/1, blogger Người Buôn Gió và các bạn của anh cũng liên tục bị CA Nghệ An kéo đến khác sạn khủng bố, đòi kiểm tra đồ đạc. Đây là thủ đoạn của CA nhằm ngăn chặn những người muốn đến theo dõi phiên tòa xử 14 người yêu nước. 
Được biết, sau khi bị bắt vào sáng 8/1, Người Buôn Gió bị giam giữ tại trụ sở CA TP. Vinh. Từ hôm đó đến nay, không ai biết blogger này bị giam giữ ở đâu. 
Lúc 11h trưa nay, trên facebook của chị Bùi Thị Minh Hằng nói rằng: Anh trai Người Buôn Gió và một số người bạn đã đi suốt đêm vào tận Vinh để hỏi tin. Phía CA TP. Vinh nói rằng đã áp giải Người Buôn Gió về Hà Nội, và đang giam giữ tại số 6 Quang Trung, Quận Hà Đông. 
Tính đến thời điểm này, Blogger Người Buôn Gió đã bị giam giữ trái phép 3 ngày, 2 đêm. Đây là hình vi bắt cóc công dân do công an Nghệ An và Hà Nội thực hiện.

Đất nước ta còn quá nhiều người hèn

Tôi vô cùng xấu hổ để khẳng định mình là một trong số những người hèn đó. 
Hơn 70 năm qua, với chủ trương dùng bạo lực để áp đặt thể chế công sản tại Việt Nam, cộng sản Việt Nam đã gây ra biết bao tội ác với người dân Việt, nhưng đã có được bao nhiêu sự phản kháng? Giai đoạn từ 1945 đến 1954, khi đó trình độ khoa học, kỹ thuât của miền Bắc Việt Nam còn nhiều hạn chế nên kéo theo nhiều cuôc thanh trừng đẫm máu mang nhiều màu sắc của xã hội loài người thời trung cổ. Những hành đông thiếu nhân tính đó mãi sau 1954 ngưới dân miền nam mới được biết qua làn sóng ngưới dân di cư từ miến Bắc vào theo hiệp định GENEVE.
Từ năm 1975, người dân miến Nam lại bị nhiều cảnh đau thương tuy hình thức không man rợ như những gì mà người dân miền Bắc đã gánh chịu, nhưng những mất mát, đau thương thì không có gì khác biệt. Nhiều người dân miền Nam, trước năm 1975 chân chất làm ăn, buôn bán, chắt chiu từng đồng một, xây dựng một ngôi nhà tương đối để con cháu có nơi sinh sống, học hành. Sau năm 1975 bị đuổi ra khỏi nhà bỡi một cụm từ “cải tạo tư sản”… 
Với hệ thông thông tin một chiều, nên có rất ít người dân biết được Ngài Hòa Thượng Thich Huyền Quang và Ngài Hòa Thượng Thích Quảng Độ bị đưa đi giam cầm ở miền Bắc ngay từ những ngày đầu tiên sau 30-4-1975, trong khi hai vị Hòa Thượng này chưa có phát biểu lời nào chống công sản. 
Có lẽ vì cuộc sống có quá nhiều khó khăn, hàng ngày phải lo cơm áo,gạo tiền cho gia đình, thiếu quan tâm đến những người xung quanh, cuối cùng trở thành “ bệnh mãn tính”. 
Ngày nay đời sống của người dân, tuy không còn khó khăn như như những năm 75-84, nhưng người dân Việt vẫn còn chịu rất nhiều oan sai, đặt biệt là đối mặt trước hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc. Trong 2000 tiến sỹ của Việt Nam có được bao nhiêu vị dám nói lên chính kiến của mình về những oan sai và hiểm họa đền từ phương Bắc? 
Một hôm ngồi uống cà phê tai môt quán cốc bên đường, bên cạnh có một nhóm sinh viên đang nói chuyện thật rôm rả, tôi quay sang hỏi:
- Các cháu học trường nào?
- Dạ, Đại học giao thông vận tải 
- Các cháu có biết bạn Phương Uyên, sinh viên trường Đại học công nghiệp thực phẩm? 
- Bạn đó có gì đặt biệt hả chú? 
- À, bạn đó phản đối Trung Quốc xâm lược VN, đã bị công an VN bắt về tội chông phá nhà nước. 
Một em trong nhóm nói: 
- Thật dở hơi, học không lo học mà làm chuyện tầm phào 
-Thế cháu cho rằng chuyện TQ xâm lược VN là chuyện bình thường sao? 
- Chuyện đó cứ để nhà nước lo chú ơi! 
- Thế cháu có biết Ải Nam Quan của mình hiện giờ nằm trên lãnh thổ nước nào không? Để nhà nước lo nên một phần biên giới phía Bắc, một phần đảo Trường Sa đã thuộc TQ. 
Cả nhóm im lặng. 
Hiện nay có rất nhiều Giáo sư, Bác sỹ, Giáo viên… có cùng suy nghĩ như nhóm sinh viên của Đại học giao thông vận tải. Có thể do công việc hàng ngày của những vị này chưa đụng chạm đến chính quyền, nên chưa nhìn thấy những diều oan ức,nhưng một phần biên giới phía Bắc,một phần đảo Trường Sa đã thuộc về Trung Quốc và sự việc ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc cướp phá hàng ngày quí vị đều không biết? 
Các vị chân tu đã và đang góp phần không nhỏ trong việc đem lại một cuộc sống an bình cho người dân Việt, nhưng tu là phải dấn thân,sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để bảo vệ sự bính an cho đồng loại. Hiện nay người dân Việt đang chịu nhiều nỗi oan, đặc biệt đang đứng trước hiểm họa bị xâm lăng từ phương Bắc. Hãy thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh sau tiếng chuông chùa ngân nga và tiếng chuông nhà thờ giục dã. 
Thật ngưỡng mộ sự dũng cảm, hy sinh của những nhà đấu tranh vì đôc lập tự do của nước nhà như Trần Huỳnh Duy Thức, Lê thăng Long, Lê Công Định, Điếu Cày, Anh Ba Sài Gòn, Chị Tạ Phong Tầng… 
Trong những sự hy sinh đó có sự đóng góp cùa sinh viên Phương Uyên, sự góp sức này tuy chưa có thể nói là một ngọn lửa, nhưng có thể gọi là một đom đóm sáng trong màn đềm tối tăm của các trường đại học hiên nay. 
Hy vọng rằng con đom đóm này sẽ dẫn đường cho các bạn cùng trang lứa và đánh thức lương tri của những người thầy cô đang rao giảng về đạo đức cho mình. 
Dân tộc ta đã có 1000 năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc oanh liệt. Nhưng nếu để bị Bắc thuộc một lần nữa thì thật không dễ chút nào đễ giữ vững truyền thống tốt đẹp đó của tổ tiên .

Ý kiến thế nào trong vở kich dân chủ giả hiệu sắp tới?

Quyền được sửa đổi Hiến pháp được khép kín ở những điều mà ĐẢNG CỘNG SẢN cho phép, tránh không vì gia tăng quyền lực của nhân dân mà ảnh hưởng đến quyền lãnh đạo của Đảng. Tính thể chế của nhà nước “của dân, do dân, vì dân” thông qua HIẾN PHÁP sửa đổi lần này đã bị bóc lột sạch sẽ trước khi nó được thành hình. Chỉ bởi một quy luật tất yếu là TÍNH ĐẢNG được đề cao thì TÍNH DÂN bị phủ định sạch trơn hoặc bị đè xuống dưới góc thấp nhất đủ để thở hổn hển để được cho là còn sống.

*
Những ngày cuối năm 2012, những người quan tâm đến nền chính trị nước nhà vui mừng khi nhà nước CHXHCN Việt Nam đã quyết định “lấy ý kiên nhân dân về sửa đổi Hiến pháp”, ai ai cũng vui mừng, hớn hở. Không sao được khi lần đầu mình có được cái quyền làm chủ mà bấy lâu nay Đảng ta cứ lờ tịt cơ chứ. Càng sung sướng hơn khi các cán bộ lên báo tuyên bố “không có vùng cấm trong lấy ý kiến về sửa đổi Hiến pháp". Cứ tưởng rằng lần này chính quyền hiện tại đã biết chia sẻ một phần “quyền làm chủ” cho nhân dân và trên cả thể hiện một bước tiến dân chủ trong bối cảnh một Myanmar đang cải cách sâu rộng về mặt thể chế. Cứ tưởng dân Việt Nam sẽ được ăn một món cơm dân chủ dù đạm bạc hơn so với các nước khác nhưng cũng là một bữa cơm đàng hoàng, ngon ngọt hơn ngày hôm qua. 
Thế nhưng đùng một cái. Liên tiếp trong thời gian gần đây của năm 2013, hàng loạt bài báo của ĐẢNG đã răn đe, phòng ngừa từ xa về cái gọi là “lợi dụng ý kiến về sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng” mà gần đây nhất là được nhấn mạnh qua ý kiến của trưởng ban tuyên giáo TW Đinh Thế Huynh tại Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đối Hiến pháp vào ngày 08/01/2013 (trước đó, thường trực ban bí thư Lê Hồng Anh cũng đã góp ý tương tự). Trong đó đáng chú ý là các quan điểm:
Thứ nhất là, một mặt nêu yêu cầu về tính “dân chủ và thực chất”… đồng thời… đặt ra yêu cầu “phải thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng”. 
Tôi đọc mà cứ lấy buồn cười, như vậy đợt lấy ý kiến này về hình thức là vì nền “dân chủ” nhưng thực chất là “vì Đảng”. Quan điểm sâu sắc của Đảng sẽ chi phối hoàn toàn cái dân chủ trong góp ý kiến. Nó sẽ dễ dàng bẫy người dân khi đi vào những vùng góp ý mà Đảng không thích. Kiểu như điều 4 Hiến pháp. Do đó ĐẢNG sẽ dễ dàng quy kết mọi người dân chạm vào cái điều nhạy cảm ấy bằng cái tội “mạo danh, nặc danh, lợi dụng lấy ý kiến nhân dân…. để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân”.
Thứ hai là, nhấn mạnh trách nhiệm mở chuyên trang, chuyên mục… có nhiều hình thức thu nhân, góp ý và phản ánh khách quan, toàn diện, kịp thời nhanh chóng ý kiến của nhân dân. Ý kiến chọn đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng cần đảm bảo khách quan, mang tính tiêu biểu và tính xây dựng.
Như vậy ý kiến của nhân dân sẽ được lựa chọn trên cơ sở tiêu biểu và tính xây dựng. Nhưng thế nào là tiêu biểu, thế nào là tính xây dựng? Nó được hiểu theo ý Đảng hay ý dân. Nếu như hiểu theo ý Đảng thì không hợp lòng dân, nếu hiểu theo ý dân thì lại không đảm bảo tính tiêu biểu và tính xây dựng… của ĐẢNG. Giả sử như người ta vạch ra cái ý bỏ điều 4 Hiến pháp với các lý luận rõ ràng thì nó có phải là mang tính xây dựng hay không? Hay tối thiểu là góp ý bổ sung quy định về các điều khoản hạn chế quyền lực Đảng, loại bỏ tính định hướng XHCN trong nền kinh tế, tăng quyền tự do lập hội, quyền lực thứ tư về việc báo tư nhân… thì có được xem là mang tính “xây dựng và tiêu biểu” hay không? Hay nó đụng chạm vào cái tội “mạo danh, nặc danh, lợi dụng ý kiến…xuyên tạc, công kích, chống phá” để rồi bị bỏ tù. 
Thì ra đây là một vở hài kịch được dựng lên để bẫy những người ngây thơ về chính trị, những nhà cách mạng trên mây. Quyền được sửa đổi Hiến pháp được khép kín ở những điều mà ĐẢNG CỘNG SẢN cho phép, tránh không vì gia tăng quyền lực của nhân dân mà ảnh hưởng đến quyền lãnh đạo của Đảng. Tính thể chế của nhà nước “của dân, do dân, vì dân” thông qua HIẾN PHÁP sửa đổi lần này đã bị bóc lột sạch sẽ trước khi nó được thành hình. Chỉ bởi một quy luật tất yếu là TÍNH ĐẢNG được đề cao thì TÍNH DÂN bị phủ định sạch trơn hoặc bị đè xuống dưới góc thấp nhất đủ để thở hổn hển để được cho là còn sống.
Vì thế nên trước và trong thời gian lấy ý kiến Hiến pháp, Đảng ta đã tăng cường việc bắt bớ, giam cầm, làm nhục những người có chính kiến trái với ĐẢNG, làm suy giảm quyền lực lãnh đạo của Đảng hay cố tình “làm mất uy tín” của ĐẢNG bằng việc công khai những cái bất lợi nếu tiếp tục duy trì cái định hướng chữ nghĩa như trong HIẾN PHÁP hiện tại (1992). Điều đó vừa tạo ra bài học có tính răn đe, dọa nạt với những người còn lại, theo đó, hãy đóng góp ý kiến “theo sự chỉ đạo của Đảng”, còn không, cứ nhìn gương Cù Huy Hà Vũ, Phương Uyên, Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Anhbasaigon, gần nhất đây (09/01/2013) là 14 người yêu nước công giáo và cô Lô Thanh Thảo…
Điều này cũng cho thấy sự suy tàn, sự chống cự đến điên cuồng của Đảng trong khi vai trò, uy tín về sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đang lao xuống dốc không phanh bởi sự suy đồi về mặt đạo đức của nhóm hoặc cá thể Đảng viên đến quá trình làm dụng quyền lực để trấn áp tiếng nói của người dân trong nước và quá trình thông tin hóa dân chủ và sự lên tiếng từ trong sợ hãi của nhân dân tiếng bộ ở các quốc gia độc tài (Ai Cập, Myanmar, Syria, Lybia…). 
Nhưng dù sao tôi cũng đánh giá ĐẢNG CỘNG SẢN lần này “nhân đạo hơn”, vì ít nhất cũng không dùng cái chiêu “dụ rắn ra khỏi hang” và đánh bầm dập như Nhân văn – Giai phẩm, Cởi mở, chiến dịch X2… Có thể vì trong hàng ngũ Đảng cộng sản đã có những người học từ trời Tây về nên tư tưởng cởi mở hơn, có thể vì sức mạnh truyền thông của internet hiện tại đã chế ngự cái sự “im lặng” đáng sợ đó. Cũng có thể đây là một sự thách thức trực diện của nhà cầm quyền, một sự mỉa mai về dân chủ mà ĐẢNG TÍNH đang muốn bỡn cợt với DÂN TÍNH.
Nhưng tôi vẫn đau đáu một câu hỏi lớn:  “Đợt lấy ý kiến này chắc chắn là một cái bẫy để xóa sổ người bất đồng chính kiến ở Việt Nam bằng cách thách thức trực diện từ phía nhà cầm quyền. Vậy thì ta có nên góp ý hay lại phẩy tay và lờ đi? Nhất là trong hoàn cảnh Việt Nam chưa có một lãnh đạo đối lập, một tổ chức đủ uy tín để vực dậy lớp người còn đang chán ngán nhưng sợ hãi chế độ?”. Phải làm sao? Làm như thế nào?

Wednesday, January 9, 2013

Lê Diễn Đức - Tờ Petrotimes của Nguyễn Như Phong: Trí trá hoá ngu

Lê Diễn Đức
 
Ngày 2/01/2013, tờ Petrotimes đăng tải bài "Lật tẩy bộ mặt thật của Giải nhân quyền Hellman/Hammett 2012" nhằm bôi xấu hình ảnh 5 công dân Việt Nam được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao Giải thưởng Hellman/Hammett: Nguyễn Hữu Vinh, Phạm Xuân Hoàng, Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy và Vũ Quốc Tú.
 
Lặp lại giọng điệu cũ rích của các tờ báo lề đảng đã từng thoá mạ những công dân Việt Nam khác cũng được trao tặng giải thưởng Hellman/Hammett trước đó, tờ Petrotimes nỗ lực tăng thêm công suất, nhưng vì bất lương nên để lộ sự thấp kém tay nghề và đạo đức.
 
Tôi không phân tích thêm sự bôi nhọ cá nhân, bởi vì với bài "Hãy sờ lên gáy mình, thưa anh Nguyễn Như Phong", Blogger Nguyễn Hữu Vinh, đã chỉ ra cho tờ Petrotimes sự ngu ngốc, thích lên cơ bắp nhưng quá non cơ khi quy chụp blogger Nguyễn Hữu Vinh là "một kẻ đội lốt tôn giáo".
 
Nhận định của Nguyễn Hữu Vinh, thiết nghĩ, mô tả đầy đủ nhân cách của một thân phận bồi bút vô liêm sỉ:
 
"Càng lớn tiếng anh càng thể hiện sự dốt nát của mình như để chứng minh cho câu nói của người xưa “nói dài, nói dai sẽ thành nói dại”, "thể hiện rõ ràng những tính cách" "đâm thuê, chém mướn", bẻ cong ngòi bút..", với tính cách của "con… khuyển" "biết sủa"...
 
Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh Petrotimes đã cố ý sử dụng từ ngữ mập mờ, trí trá, nhằm thoá moạ, vu khống một tổ chức quốc tế có uy tín hàng đầu trên thế giới từ nhiều thập niên qua: Tổ chức Theo dõi nhân quyền và Giải thưởng hàng năm của nó mang tên Hellman/Hammett.
 
Bằng cách này, Petrotimes đã bóp méo sự thật về HRW, lừa mị những người kém hoặc hiểu biết, hoặc ngoài nguồn báo chí lề đảng ra không có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin đa chiều.
 
Human Rights Watch
 
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, tiếng Anh là "Human Rights Watch" (HRW), có trụ sở tại New York, Hoa Kỳ, là một tổ chức dân sự, phi chính phủ, với cương lĩnh hoạt động ủng hộ nhân quyền.
 
Hoạt động của các tổ chức dân sự, phi chính phủ phổ biến trên khắp thế giới, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và lành mạnh hoá xã hội. Các tổ chức này hoạt động trên cơ sở tự nguyện dấn thân, chi phí hoạt động được hỗ trợ bởi các nhà từ thiện, độc lập với nhà cầm quyền, không cần ai phong hàm tước hay chỉ đạo nhiệm vụ nào phải thực hiện.
 
Thành lập năm 1978, "Helsinki Watch" ra đời với chủ trương giám sát tình trạng nhân quyền tại Liên Xô, thu thập tư liệu về việc Liên Xô thực hiện các quy ước của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu, mà Liên Xô là một thành viên, và giúp đỡ "các nhóm bảo vệ nhân quyền trong Liên bang Xô Viết".
 
Năm 1988 "Helsinki Watch" hợp nhất với các tổ chức quốc tế khác có cùng chung mục đích, trở thành "Human Rights Watch".
 
"Helsinki Watch" trở thành "Human Rights Watch" xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của thực tế cần mở rộng phạm vi hoạt động, nâng uy tín, tầm vóc với những tiêu chuẩn cao của một tổ chức từ thiện, nên mang ý nghĩa quan trọng và cao cả.
 
Nhà từ thiện George Soros trong năm 2010 khi công bố ý định tặng 100 triệu USD cho HRW trong khoảng thời gian 10 năm, đã nói, "Human Rights Watch là một trong những tổ chức nhân quyền hiệu quả nhất mà tôi hỗ trợ với nguyện vọng củng cố quyền con người vĩ đại nhất của chúng ta".
 
Nói về sự thay đổi này, Petrotimes sử dùng các từ "biến dạng", "tự phong cho mình quyền giám sát nhân quyền thế giới" là cố ý lèo lái dư luận hiểu theo nghĩa xấu trong ngôn ngữ Việt Nam.
 
Hàng năm HRW ra báo cáo nghiên cứu về vi phạm nhân quyền quốc tế, như các quy định của bản Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên và Công ước Quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã ký kết ngày 24/9/1982.
 
Những báo cáo về vi phạm nhân quyền của HWR bao gồm phân biệt đối xử xã hội và giới tính, tra tấn, sử dụng trẻ em trong quân đội, tham nhũng chính trị, lạm dụng trong các hệ thống công lý hình sự, và hợp pháp hoá phá thai, v.v... được sử dụng làm cơ sở nhằm thu hút sự chú ý quốc tế, tạo ảnh hưởng và áp lực lên các chính phủ và tổ chức quốc tế để cải cách và có biện pháp ứng phó.
 
Báo cáo của HRW, vì thế, phản ánh tình trạng vi phạm nhân quyền ở khắp mọi nơi trên thế giới, kể cả ở Tây Âu và Hoa Kỳ. Trong năm 2005, HRW đã kiện Donald Rumsfeld, Bộ tưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, tại tòa án tại Illinois, với cáo buộc Rumsfeld đã cố tình dung túng cho việc tra tấn trong các trại giam của quân đội Hoa Kỳ - là một ví dụ.
 
HRW không phải là "lực lượng thù địch" chỉ nhắm vào các chế độ cộng sản, độc tài, lại càng không bao giờ xem nhà nước Việt Nam là mục tiêu và "cổ xúy hoạt động chống đối, lật đổ", như Petrotimes vu khống trắng trợn. Nếu muốn, HRW hoàn toàn có thể kiện Petrotimes ra toà.
 
Giải thưởng Nhân quyền Hellman/Hammett
 
Nói về Lillian Hellman và Dashiell Hammett, những người được HRW đặt tên cho giải thưởng hàng năm, Petrotimes viết: "Nhà biên kịch Lillian Hellman và tiểu thuyết gia Dashiell Hammett, đều là những đối tượng vi phạm luật pháp".
 
Sử dụng cụm từ "đối tượng vi phạm luật pháp" cho hai nhà văn Mỹ, bôi bác hình ảnh của hai biểu tượng này và giải thưởng mang tên họ, tờ Petrotimes đã tỏ ra vừa bất lương vừa kém cỏi về chính trị.
 
Nghịch lý thay, Lillian Hellman và Dashiell Hammett, là bạn của những người cộng sản. Họ "vi phạm pháp luật" (theo Petrotimes) vì đã dám nói lên chính kiến chính trị của mình và không chịu khai báo với toà để bảo vệ những người bạn cộng sản của họ!
 
Nạn nhân của đàn áp chính trị
 
Chủ nghĩa McCarthy - McCarthyism là tên chung cho nhóm các chính sách do Ủy ban đặc biệt của Thượng viện Mỹ khởi xướng vào ngày 21/12/1950, được hỗ trợ trực tiếp bởi Tổng thống Mỹ Harry Truman và Thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy. Thuật ngữ "McCarthyism" được được nhà văn châm biếm Herbert của tờ "Washington Post" sử dụng lần đầu tiên ngày 29/3/1950. Các tổ chức McCarthy khác quan trọng là Ủy ban Dân biểu Nghiên cứu về Hoạt động chống Mỹ và Tiểu ban Điều tra Thuờng trực Thượng viện.
 
Mục đích ban đầu là thiết lập một ủy ban nhằm chống lại sự thâm nhập của Đảng Cộng sản (ĐCS) Mỹ và gián điệp Xô Viết vào các cơ quan chính phủ. Nhưng những hoạt động này nhanh chóng ra khỏi tầm kiểm soát và tập trung vào một nhóm thượng nghị sĩ xung quanh McCarthy, giám sát toàn bộ giới tri thức-sáng tạo trong xã hội Mỹ - các diễn viên, đạo diễn, nhà báo và các nhà khoa học.
 
Ủy ban của McCarthy đã thẩm vấn nhiều cá nhân từ danh sách được đưa ra chủ yếu dựa trên sự nghi ngờ của McCarthy. Những người bị thẩm vấn, nếu bất hợp tác, không kể ra tên tuổi những người bị tình nghi là hỗ trợ hoặc có mối quan hệ với các thành viên của ĐCS, sẽ gặp nhiều rắc rối.
 
Sử gia Mỹ Stanley Schultz trong cuốn "American History 102" đã viết: "Với những bằng chứng không có cơ sở, những lời buộc tội của McCarthy dựa trên sự vu cáo và bôi nhọ nhằm mục đích hủy hoại danh tiếng của các đối thủ chính trị. Vào năm 1954 lần đầu tiên khi hàng triệu người xem TV thấy các phương pháp của McCarthy, đã dấy lên một làn sóng phẫn nộ và đưa tới việc kiểm duyệt chính thức các hoạt động của ông".
 
Nạn nhân của đàn áp chính trị của FBI và Ủy ban Thượng viện của McCarthy không chỉ bao gồm những người bị triêu tập thẩm vấn, điều trần, mà còn tạo ra một bầu không khí nghi ngờ xung quanh những người có cảm tình, ủng hộ Liên Xô.
 
Ở đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh, cả hai bên của Bức màn sắt lúc bấy giờ dễ dàng khủng bố tâm lý về một mối đe dọa thường trực. Nghi ngờ "chống Mỹ" là lời buộc tội nghiêm trọng, có thể phá vỡ sự nghiệp, nạn nhân bị xã hội tẩy chay.
 
Tromg số các nạn nhân nổi tiếng của chủ nghĩa McCarthy lúc đó có bà Lillian Hellman và Dashiell Hammett, mà Petrotimes muốn bôi nhọ.
 
Hầu hết các nạn nhân của McCarthy, vào thời tuổi trẻ hoặc thời điểm bị thẩm vấn có cảm tình với các phong trào cánh tả, với ĐCS Mỹ, nhưng các "bằng chứng" khai tử sự nghiệp của họ, đa số đều bất tín. Cách thức hành động của chủ nghĩa McCarthy cuối cùng gặp rắc rối với chính nó và làm bất an những người khởi xướng từ giới chức trách, đã dẫn đến việc công khai hoá hoạt động của Uỷ ban trước công luận. Tiểu ban An ninh Nội bộ Thượng viện chỉ hoạt động tới năm 1972, nhưng sau khi bãi nhiệm McCarthy, đã hoàn toàn thay đổi các quy tắc hoạt động.
 
Lilian Hellman
 
Lilian Florence Hellman sinh ngày 20/6/1905 tại New Orleans, sống tới tháng 6/1984 tại tisbury, bang Massachusetts, là nhà viết kịch và biên kịch, cả cuộc đời gắn bó với lực lượng cánh tả.
 
Bà sinh ra tại New Orleans trong một gia đình Do Thái. Thành công văn học nhất của bà vào những năm 30 và 40 của Thế kỷ 20, khi xuất hiện các vở kịch "The Children's Hour" (1934) và "The Little Foxes" (1939). Cả hai đều được bà viết thành kịch bản phim và bà là người phụ nữ đầu tiên được đề cử Oscar cho kịch bản hay nhất.
 
Năm 1950, bà Hellman bị truy bức chính trị vì những hoạt động bị xem là có lợi cho chủ nghĩa cộng sản. Bà phải đứng trước Ủy ban điều tra các hoạt động chống Mỹ và khước từ khai về bạn bè và người quen cũ của mình có cảm tình với những người cộng sản. Vì việc này bà đã phải trả giá đắt, bị Hollywood tẩy chay, do có tên trong sổ đen.
 
Trong ba mươi năm, bà có quan hệ tình cảm với Dashiell Hammett tác giả chuyên về đề tài trinh thám. Bà là nguồn cảm hứng để Hammlett cho hiện thân trong nhân vật Nora Charles.
 
Dựa trên lời kể của bà với tiêu đề "Pentimento" (1973), vào năm 1977 đạo diễn Fred Zinnemann đã xây dựng bộ phim về cuộc đời của bà. Bộ phim đã giành được ba giải Oscar, và nhân vật nữ nhà văn do ngôi sao Jane Fonda thủ vai.
 
Dashiell Hammett
 
Dashiell Hammett sinh ngày 27/0 5/1894 tại Quận Saint Mary, Maryland, sống đến tháng 10/1961 tại New York, là tiểu thuyết gia trinh thám, tác giả truyện ngắn và kịch, được xem là người sáng tạo ra thể loại văn học "trinh thám đen" (noir).
 
Ông lớn lên ở Philadelphia và Baltimore, bỏ học ở tuổi 13 và làm các công việc khác nhau trước khi được vào làm với vai trò thám tử tại Cơ quan Thám tử Pinkerton ở San Francisco, từ 1915 đến 1921. Trong Chiến tranh Thế giới I ông phục vụ trong Quân đoàn y tế của quân đội Mỹ. Năm 1921, ông kết hôn với một y tá, Josephine Dolan, có hai con gái Mary Jane (sinh 1921) và Josephine (sinh năm 1926). Sau đó, ông làm việc trong ngành quảng cáo và một thời gian sau thì bắt đầu viết. Nguồn cảm hứng của ông là công việc thám tử, được ông hiện thân trong nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết "Sam Spade".
 
Năm 1931, ông gặp nhà viết kịch, bà Lillian Hellman, và hai người có một cuộc tình kéo dài ba mươi năm.
 
Cuốn sách nổi tiếng nhất của Hammett là "The Maltese Falcon", bán chạy nhất lúc bấy giờ, được quay thành phim ba lần (1931, 1936, 1941).
 
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng ông viết vào năm 1934. Phần còn lại của cuộc đời ông dành cho các hoạt động cánh tả, chống phát-xít đến điên cuồng. Năm 1937 ông gia nhập Đảng Cộng sản Mỹ và trong công giai đoạn hợp tác Đức-Xô ông hoạt động trong "Keep America Out of War Committee" chống lại sự can dự của Mỹ vào Chiến tranh Thế giới II. Năm 1942, sau khi Trân Châu Cảng bị tấn công, ông gia nhập quân đội. Mặc dù bị bệnh lao, ông đã sử dụng ảnh hưởng của mình để tái nhập ngũ. Ông đã trải qua cuộc chiến trên quần đảo Aleutian với cấp bậc trung sĩ, biên tập viên báo quân đội.
 
Giống như người bạn gái Lillian Hellman, ông đã bị ủy ban của McCarthy thẩm vấn vào những năm 50 về các hoạt động chính trị thiên cộng và ông từ chối hợp tác, vì vậy ông cũng bị liệt vào sổ đen của Hollywood. Năm 1951, vì không muốn làm tổn hại những đồng chí cộng sản của mình, ông khước từ làm nhân chứng trước toà nên bị phạt 5 tháng tù.
 
Lời kết
 
Những dữ kiện trên đây cho ta thấy, vào thập niên 50 của thế kỷ trước, những người có khuynh hướng cộng sản tại Mỹ đã bị đàn áp và khủng bố bởi chủ nghĩa McCarthy.
 
Mặc dù nhiều năm sau, những hoạt động của Uỷ ban Thượng viện của McCarthy được chứng minh là đúng đắn, nhưng trong rất nhiều trường hợp vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, nên quốc hội Mỹ đã kịp thời ngăn chặn.
 
HRW, một tổ chức dân sự tại Mỹ lấy tên của một người cảm tình với CS - Hammett, và một người CS - Hellman, những nạn nhân của chủ nghĩa McCarthy, đặt cho Giải thưởng nhân quyền chứng tỏ sự vô tư, bất thiên vị, tính nhân bản và vị tha của tổ chức xã hội này.
 
Sự hành xử của an ninh CSVN hiện nay đối với những người cầm bút tự do và bất đồng chính kiến có nhiều nét tương đồng với chủ nghĩa McCarthy, nhưng tính thô bạo, bất nhân cao hơn gấp nhiều lần vì lối bắt giữ tuỳ tiện, vô cớ ngày mỗi lộng hành, phổ biến và bộ máy đàn áp được côn đồ hoá.
 
Vì thế, dễ thấy vì sao nhà cầm quyền CSVN rất khó chịu trước giải thưởng nhân quyền mang tên Hellman/Hammett dành cho các công dânViệt Nam và tờ Petrotimes đã cố nặn ra một bài viết vô cùng tệ hại. Nhưng tức tối, bất lương và trí trá đã hoá ra ngu dốt!