Mặc dù trong 9 tháng đầu năm, tính trung bình, Việt Nam xuất siêu được
hơn 30 triệu đô la, nhưng việc nhập siêu chỉ với riêng thị trường Trung
Quốc lại lên tới 11,3 tỷ đô la. Nếu tính riêng lượng hàng từ Trung Quốc,
Việt Nam đã nhập gần 21 tỷ đô la, chiếm xấp xỉ 1/4 tổng kim ngạch nhập
khẩu cả nước, vượt cả mục tiêu của năm 2015.
Ngày càng lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc
Đây quả là một điều bất lợi và đáng lo ngại, bởi theo PGS. TS Trần Đình
Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận xét Việt Nam đang ngày
càng lệ thuộc lớn hơn vào thị trường Trung Quốc “lệ thuộc đầu vào đã là
bất lợi và nhập siêu lớn từ một thị trường lại càng bất lợi hơn.” Nhất
là nếu nhìn vào cơ cấu mặt hàng thì Việt Nam nhập khẩu đến 2/3 nguyên
phụ liệu cho sản xuất như dệt may và nhiều mặt hàng khác để phục vụ sản
xuất trong nước từ máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng, điện thoại và các
thiết đi kèm cho tới máy tính, sắt thép… đáng chú ý là trong những mặt
hàng này, thép nhập khẩu từ Trung Quốc tăng hơn 10%, đứng thứ 5 về kim
ngạch nhập khẩu, trong khi thép trong nước thì tồn kho hàng trăm ngàn
tấn, riêng mặt hàng điện thoại và các linh kiện thì trong nửa đầu năm
nay tăng gần 130% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhận xét về những nghịch lý này, T.S Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương, không khỏi lo lắng:
Quan hệ thuơng mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trở thành quan hệ bắc
ngang, tức là Việt Nam xuất phần lớn nông lâm thuỷ sản, các nguyên liệu
thô sang Trung Quốc rồi nhập các sản phẩm trang thiết bị công nghiệp,
các sản phẩm máy móc về. `Điển hình là Việt Nam xuất cao su sang Trung
Quốc rồi nhập vỏ và ruột xe. Tình hình này không những làm các nhà
chuyên môn mà trong đông đảo nhân dân rất lấy làm lo ngại.
Những gì T.S Lê Đăng Doanh không chỉ khiến người ta lo ngại về bản chất
của chuyện giao thương hai chiều như một sự khai thác tài nguyên rồi
xuất sang Việt những thành phẩm, kiểm soát thị trường Việt Nam từ A - Z.
Điều khiến người ta quan ngại hơn lại là chất lượng của hàng nhập về từ
Trung Quốc. Theo nhận xét của các chuyên gia thì Việt Nam chưa có hàng
rào kỹ thuật để kiểm soát các loại hàng kém chất lượng và câu chuyện
Việt Nam trở thành nơi tiêu thụ “thượng vàng hạ cám” của Trung Quốc vẫn
là câu hỏi bỏ ngỏ từ bấy lâu nay.
Trong một phân tích được tờ Tiền phong Online trích dẫn hôm 3/10, T.S
Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế cho rằng sự phụ thuộc vào thị
trường Trung Quốc đang tạo ra 2 mối nguy cho Việt Nam: trước hết đó là
hàng hóa thực phẩm giá rẻ tràn vào nhưng không được kiểm soát tốt về
chất lượng, thứ hai, nguy hiểm hơn là Trung Quốc có chiến lược “đẩy”
hàng ngàn thiết bị công nghệ sản xuất lạc hậu sang các nước, trong đó có
Việt Nam, nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ thành “bãi phế thải” công
nghệ của họ.
Báo chí cả trong nước lẫn quốc tế từ lâu đã cảnh báo mối họa nhập hàng
hóa kém chất lượng từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu
dùng như: gạo giả, sữa bột giả, trứng giả, trái cây nhuộm chất hóa học,
dư lượng thuốc trừ sâu, thịt đông lạnh hư thối… cho tới cả tiền giả đang
phá hoại nền kinh tế Việt Nam một cách âm ỉ và có hệ thống.
Với lợi thế giá rẻ và không bị ràng buộc về mặt chất lượng, nên các mặt
hàng phổ thông, có tác động trực tiếp đến sự an toàn của người dân như
đồ gia dụng, rau củ quả, trái cây “Made in China” được nhập về Việt Nam
một cách thoải mái qua con đường tiểu ngạch, tính trung bình, mỗi ngày
có khoảng 1,000 tấn trái cây được nhập vào Việt Nam qua cửa khẩu Tân
Thanh – Lạng Sơn.
Cuộc chiến không cân sức
Cuộc chiến không cân sức
* Một cửa hàng ở Hà Nội bán toàn đồ chơi trẻ em nhập từ Trung Quốc. RFA photo
Trao đổi với chúng tôi, chị Quỳnh Trang một chuyên viên phân tích thị
trường ở Hà Nội cho biết những gì diễn biến hàng ngày tại Việt Nam:
Tôi thấy là Trung Quốc cái gì cũng có và cái gì cũng có thể làm giả
được, từ những cái nhỏ nhặt nhất như cái tăm, sợi chỉ, hay những thứ lớn
hơn như kiểu xe cộ, đồ ăn thức uống, hay là quần áo, giày dép, túi
xách… từ những cái rẻ tiền nhất, những thứ bình dân, hoặc họ có thể làm
nhái, làm giả, những thứ cao cấp, đắt tiền hơn để bán cho những người
tầng lớp cao cấp hơn. Rất là rẻ, rẻ hơn so với những cái thực chất hay
hàng nhập từ các nước khác, hoặc hàng Việt Nam. Người dân bây giờ hầu
như cứ dùng tràn lan, đâu đâu cũng có hàng Trung Quốc.
Điều mà chị Quỳnh Trang phản ánh có lẽ cũng là những lo ngại của nhiều
hãng xưởng khi thấy hàng hóa trong nước hoàn toàn có thể sản xuất được,
nhưng doanh nghiệp Việt Nam lại bị cạnh tranh trực tiếp từ hàng nhập
khẩu, cuộc chiến không cân sức với hàng Trung Quốc có thể “tiêu diệt”
nền sản xuất nội địa, rồi từ đó, Trung Quốc thả sức “tung hoành” biến
Việt Nam vốn đã lệ thuộc nay trở thành “sân sau” tiêu thụ hàng hóa do họ
kiểm soát chất lượng.
Quay lại với câu hỏi tại sao Việt Nam bị Trung Quốc khống chế trên lĩnh
vực tiêu thụ sản phẩm, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế từng cho
chúng tôi biết nguyên nhân Trung Quốc thường dễ dàng thâm nhập vào thị
trường Việt Nam:
Doanh nghiệp Việt Nam lại bị cạnh tranh trực tiếp từ hàng nhập khẩu,
cuộc chiến không cân sức với hàng Trung Quốc có thể “tiêu diệt” nền sản
xuất nội địa
Thực tế là năng lực cạnh tranh của Trung Quốc trên một loạt lĩnh vực
là hơn Việt Nam, các sản phẩm cùng chủng loại thường phong phú hơn về
mẫu mã và có sự thay đổi rất thường xuyên. Hơn nữa, họ có thể sản xuất
với giá thành rất thấp do họ có lợi thế quy mô sản xuất, cũng như khả
năng sản xuất tất cả các nguyên nhiên phụ liệu cần thiết và tổ chức sản
xuất có hiệu quả cao.
Trong một lần phát biểu với báo chí trong nước, ông Võ Trí Thành, phó
Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổng kết “…
Chúng ta cứ hình dung 100 đồng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc hiện
nay, chưa tính buôn lậu thì khoảng 55 đồng là nguyên nhiên liệu hàng đầu
và trung gian, khoảng 35 đồng là thiết bị máy móc và dưới 10 đồng là
hàng thiết yếu. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu hàng trung gian từ Trung
Quốc về chỉ có một phần để xuất khẩu, phần còn lại được sử dụng để sản
xuất ra hàng hóa và tiêu thụ ở Việt Nam.”
Qua con số mà T.S Võ Trí Thành đưa ra, có thể thấy chính Việt Nam đã vô
hình chung tự biến mình thành nơi trung gian tiêu thụ hàng hóa cho Trung
Quốc, điều mà lẽ ra chúng ta vẫn có thể tránh được nếu có các chính
sách quản lý nhập khẩu rõ ràng.
Vậy không lẽ chúng ta sẽ không thể thoát khỏi được “gọng kìm” của Trung
Quốc? Câu trả lời có lẽ chỉ có chính các doanh nghiệp Việt Nam và các
cấp quản lý vĩ mô trả lời, bởi lẽ khi Việt Nam đã có cam kết hội nhập
thì không thể phân biệt đối xử với hàng của Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment