Ngược dòng lịch sử, kể từ lúc 2 giờ chiều ngày 2/9/1945 khi  Hồ Chí 
Minh, trong tư cách Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bước lên 
khán đài ở Công trường Ba Đình đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, không người Việt 
Nam nào khi ấy ngờ rằng, cũng chính họ Hồ  và đảng CSVN sẽ đưa đất nước 
và con người Việt Nam vào vòng điêu linh trong 30 năm chiến tranh sau 
đó.
Khi họ Hồ mượn những những lời văn bia đá của Tuyên ngôn Độc lập  Hoa Kỳ
 ngày 4 tháng 7 năm 1776  để ghi vào Tuyên ngôn của mình với lời khẳng 
định đó cũng là những quyền tự nhiên mà dân tộc Việt Nam có quyền được 
hưởng thì Hồ Chí Minh có biết rằng cũng chính ông ta và đảng CSVN đã lên
 kế họach sẽ tước đọat tất cả các quyền đó của dân khi lên cầm quyền ?
Ngày ấy Hồ Chí Minh nói : “Hỡi đồng bào cả nước, 
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ 
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có 
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".  (We hold 
these truths to be self-evident, that all men are created equal, that 
they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that 
among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.— U.S. 
Declaration Of Independence,1776)
Họ Hồ còn diễn giải thêm rằng : “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn
 Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả
 các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có 
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.” 
Nhưng ông  Hồ không chỉ mượn Tuyên ngô độc lập của Mỹ mà còn dựa cả vào 
Bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp để nói với tòan dân khi ấy rằng : “Bản
 Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng 
nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
 được tự do và bình đẳng về quyền lợi. 
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”
Nhưng kể từ sau ngày 2/9/1945 cho đến 30/4/1975,  người dân sống trong 
chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam từ biên giới Việt Nam-Trung Hoa 
xuống vỹ tuyến 17 chia đôi Việt Nam, sau Hiệp định Geneve năm 1954, chưa
 hề được hưởng  các “quyền tự do” và được sống “hạnh phúc” theo ý muốn 
của mình, nói chi đến quyền được “bình đẳng” trong xã hội, hay quyền 
được “tự quyết” lấy tương lai chính trị của đất nước, hoặc  chọn người 
lãnh đạo Quốc gia ?
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân đều do đảng quyết định và 
chỉ huy. Người dân từ lúc sinh ra và lớn lên cho đến khi thành con người
 biết sống theo lẽ tự nhiên đều phải làm theo lệnh đảng, kể cả niềm tin 
vào tôn giáo cũng bị chỉ huy và bị hạn chế đến mức nhiều người phải bỏ 
đạo vì thiếu nơi thờ phượng, hoặc không có lãnh đạo tinh thần. 
Vì vậy tuy “vô thần” là tiêu chuẩn không viết thành văn nhưng lại là một
 “ưu điểm ngầm” để cho một công dân dễ dàng được chế độ ưu đãi hơn một 
người có tín ngưỡng và công khai tuyên xưng tôn giáo của mình.
Bằng chứng này đã thấy trong lịch sử cầm quyền của đảng CSVN, tiêu biểu 
như số trên 90 phần trăm của thành phần 500 Đại biểu Quốc hội khóa 13 và
 200 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN Khóa XI  được chọn trong
 năm 2011 là những người  có lý lịch “không tôn giáo”.  Đấy là chưa kể 
đến số phần trăm tương tự trong số 3 triệu rưỡi đảng viên.
SAU 30-4-1975
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân đội miền Bắc, được khối Cộng sản 
Nga-Hoa giúp súng đạn chiếm miền Nam từ tay Chính phủ Việt Nam Cộng hòa,
 sau 20 năm nội chiến để “thu cả nước về một mối” thì  sự mất hết “quyền
 được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"   đã lan ra cả nước.
Bằng chứng hiển nhiên đã đến với phe bại trận người dân miền Nam. Tất cả
 những quyền tự do mà họ được hưởng dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã bị 
“chính quyền cách mạng” tước bỏ.
Hậu qủa là lầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã có trên 1 triệu người dân 
miền Nam  phải bỏ nước ra đi để tìm “quyền được sống”, “quyền tự do” và 
 được “mưu cầu hạnh phúc” tại 92 nước trên thế giới.
Sau  10 năm sống với chế độ tem phiếu từ 1975 đến 1985, nền kinh tế trù 
phú miền Nam trước 1975 đã bị san bằng với chế độ kinh tế trung ương tập
 quyền và bao cấp phá sản của miền Bắc Xã hội chủ nghĩa khiến tòan dân 
kiệt quệ.
Tình trạng “bất bình đẳng”, nạn “kỳ thị Nam-Bắc”, “đối xử bất công giữa 
kẻ thắng và người thua trận” được chế độ mới nuôi dưỡng, khuyến khích đã
 tạo ra sự thù hận trong xã hội là hậu qủa của tình trạng bất “bình đẳng
 về quyền lợi”  giữa người của chế độ và dân chế độ cũ. 
Hậu qủa xẩy ra là  tình trạng mất đòan kết giữa nhân dân và chính quyền 
và giữa người dân với nhau làm đảo lộn  xã hội với số chênh lệch 
giầu-nghèo và sai biệt lợi tức đầu người giữa thành phố và thôn quê cách
 nhau từ 40 đến 90 phần trăm.
Do đó, khi Hồ Chí Minh mượn lời của Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để tuyên dương “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”  thì
 chắc khi ấy họ Hồ không bao giờ dám nghĩ đến cái ngày chính đảng do 
mình lập ra sẽ  là thủ phạm của  bản án lịch sử Cải cách Ruộng đất ở 
miền Bắc từ 1953 đến 1956 và tình trạng bất công trong xã hội  như đã 
xẩy ra trong các vụ cưỡng chế tài sản, đất đai, ruộng vườn của dân trên 
cả nước trong thập niên đầu của Thế ký 21.
Ngòai những bất công và  bất bình đẳng đi ngược lại Tuyên Ngôn Độc lập 
ngày 2/9/1945, người dân còn bị bọn cán bộ cường hào, nhất là những kẻ 
có chức có quyền bóc lột, kìm kẹp, tống tiền,  ăn chận.
Hậu qủa nhãn tiền đã được phơi bầy trong muôn mặt của tệ nạn tham nhũng 
mỗi ngày một nghiêm trọng không giải quyết nổi trong guồng máy cai trị 
của đảng CSVN.
Tệ nạn tham nhũng đã biến thành “quốc nạn” từ  Khóa đảng VII thời Đỗ 
Mười làm Tổng Bí Thư.  Mười chuyển sang cho  Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 
của Khóa đảng VIII, rồi Phiệu lại sang tay cho Nông Đức Mạnh tiếp tục 
chống trong hai khoá đảng IX và X, nhưng cũng  bó tay.
Sau đó đến lượt Nguyễn Phú Trọng, khóa đảng XI tiếp tục ra tay tiễu trừ 
tham nhũng từ năm 2011 nhưng xem ra tham nhũng tiếp tục cười vào mũi 
đảng dù đã có thêm Nghị quyết 4 về “Một số nội dung cấp bách về xây dựng
 Đảng hiện nay”  ngày 31/12/2011 và Nghị quyết 5 ngày 15-5-2012 nói về 
công tác phòng, chống tham nhũng.
Bởi vì, theo lời đảng, kể từ Nghị quyết Trung ương 3 của Khóa đảng X năm 1006 đề ra công tác phòng, chống tham nhũng thì : 
“Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và 
mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. 
Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, 
phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành , nhất là 
trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu
 tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng 
vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác 
cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh 
nghiệp..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh
 đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.” (Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 ngày 18/6/2012)
Do đó một chiến dịch kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã được phát động
 trong tòan đảng từ tháng 6/2012 với hy vọng dẹp bớt tham nhũng để giữ 
vững tư tưởng đảng viên cho khỏi lâm vào bệnh “tự diễn biến” và “tự 
chuyển hóa” đang đe dọa sự sống còn của đảng.
Nhưng nếu người dân Việt Nam chưa có “quyền sống, quyền sung sướng và 
quyền tự do”  như giấc mơ của Hồ Chí Minh ghi trong Tuyên ngộc Độc lập 
ngày 2/9/1945 thì không hy vọng gì đảng có được sự tiếp tay của người 
dân trong công tác chống tham nhũng và xây dựng đảng.
Ấy là chưa vội nói đến “cơn hồng thủy” của các “nhóm lợi ích” , hay còn 
được gọi là “lợi ích nhóm” đã tràn ngập hệ thống cai trị từ năm 2011.
Tác gỉa Ngô Minh Giang đã cảnh giác tình trạng này trên báo điện tử Xây Dựng Đảng ngày 28/8/2012: “Thời
 gian gần đây, nhiều loại tệ nạn tiêu cực phát triển nghiêm trọng và lan
 rộng, tính chất ngày càng phức tạp, thủ đoạn và hành động ngày càng 
tinh vi, xảo quyệt. Trong đó xuất hiện những nhóm lợi ích. Đó là tập hợp
 một nhóm người cùng “chí hướng” vì lợi ích cá nhân ích kỷ, cục bộ với 
phương thức hoạt động chủ yếu là tìm cách tác động lên chính quyền, khai
 thác, lợi dụng, lách những kẽ hở luật pháp.”
Nhưng các nhóm này ở đâu ra và hoạt động ra sao ?
Ông Giang trả lời : “Nhóm lợi ích được hình thành trên cơ sở các liên
 minh bất hợp pháp. Trong các nhóm này không thể thiếu cán bộ lãnh đạo, 
quản lý của Đảng, Nhà nước đã thoái hoá, biến chất, thậm chí họ có thể 
là những “sáng lập viên” của nhóm. Các nhóm và thành viên của nhóm không
 bao giờ lộ mặt công khai, chính thức. Phương châm hoạt động của các 
nhóm bí mật, khép kín, giấu mình, lẩn tránh sự kiểm tra, giám sát của kỷ
 luật đảng, luật pháp nhà nước. Nội dung hoạt động của nhóm là kết hợp 
để thu vén lợi ích, ràng buộc và khống chế lẫn nhau, khi lợi ích bị xâm 
hại, có nguy cơ phát lộ sẵn sàng vô hiệu hoá, thủ tiêu lẫn nhau để bịt 
đầu mối.
Nhóm lợi ích là một biến thể của chủ nghĩa cá nhân phát triển đến mức
 độ cao  khiến tham nhũng phát triển sâu rộng, tính chất ngày càng phức 
tạp, trở thành nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng, của chế độ, tương 
lai của đất nước. Nó là “giặc nội xâm” trong lòng Đảng ta, chế độ 
ta….Nhóm lợi ích là một dạng maphia. Số cán bộ đảng, nhà nước thoái hoá,
 biến chất hợp tác với "đại gia", dựa vào nhau “ông mất của kia, bà chìa
 của nọ” để thu vén lợi ích cá nhân. Có nhóm lợi ích chính trị, nhóm lợi
 ích kinh tế, nó phát triển từ cấp cao đến cơ sở.” 
Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cũng đã có lần cảnh giác nguy cơ đối với 
đảng do các “nhóm lợi ích” trong nội bộ đảng gây ra, nhưng chưa thấy có 
nhóm nào và phe nào bị phanh phui.
Trong khi đó, báo Quân đội Nhân dân còn viết : “Lợi ích nhóm ở nước 
ta có quy mô hết sức đa dạng, nhỏ thì người này với người kia, bộ phận 
này với bộ phận kia, lớn thì ngành này với ngành khác liên kết với nhau 
“lách luật” làm méo mó, bẻ cong đường lối, chính sách của Đảng để trục 
lợi. Đây chính là một hình thức tham nhũng tập thể, được biểu hiện dưới 
nhiều dạng vẻ khác nhau như báo cáo không trung thực, chạy dự án, chạy 
chức, chạy quyền, chạy chính sách… Khi đạt được lợi ích riêng của cá 
nhân, của bộ phận thì lợi ích chung, của đất nước, của nhân dân bị xâm 
hại. Thế mới có chuyện doanh thu của doanh nghiệp lỗ, lương vẫn cao, 
thưởng vẫn lớn. Những ngày vừa qua, thanh tra công bố số nợ xấu của toàn
 hệ thống ngân hàng lên tới 202 nghìn tỷ đồng (8,6%), con số đó cao gần 
gấp đôi so với con số do các ngân hàng thương mại báo cáo trước đó. Vì 
sao lại báo cáo thấp hơn con số thực? Báo cáo thấp để vẫn được hưởng 
lương cao, vẫn thưởng và giảm bớt được quỹ dự phòng rủi ro. Thanh tra 
còn cho biết, nợ xấu ngoài nguyên nhân khách quan do khủng hoảng kinh tế
 trên quy mô toàn cầu, còn do ngân hàng đổ tiền vào bất động sản, chứng 
khoán, mà không ít trong số đó chính là doanh nghiệp sân sau của các 
ngân hàng... Nghĩa là, cũng xuất phát từ lợi ích nhóm".(Huy Thiêm, báo Quân đội Nhân dân, 15-7-2012)
Như vậy nguy cơ thì đã thấy rõ vì các “nhóm lợi ích” đang tạo ra sự “bất
 bình đẳng” trong xã hội, gây mất ổn định trong cuộc sống của người dân 
và rất có khả năng làm xáo trộn  hệ thống cầm quyền và làm vô hiệu hóa 
Nghị quyết Trung ương 4.
Có nhiều lý do sản sinh ra các phe nhóm lợi ích trong đảng, nhưng nguyên
 nhân cốt lõi là từ câu “nhân nào thì sinh ra qủa ấy”. Nếu lãnh đạo 
trong sạch, thượng tầng mà liêm chính thì hạ cấp làm sao  dám loạn ?
Chung quy lại cũng chỉ vì người dân Việt Nam chưa được hưởng đầy đủ các 
quyền tự do như hy vọng của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945  và như 
Hiến pháp đã quy định nên dân không được  quyền tham gia việc nước để 
giúp chính phủ giải quyết những khó khăn.
Nếu đảng CSVN biết tôn trọng quyền làm chủ đất nước của người dân và trả
 lại dân quyền tự quyết định vận mạng đất ước thì mọi việc sẽ được giải 
quyết nhanh chóng bởi  một Nhà nước dân chủ biết thượng tôn luật pháp, 
thay vì một Chính quyền của một đảng độc tôn và độc tài đang  bị xỏ mũi 
lôi đi bởi các “nhóm lợi ích”.
Vì vậy tuy Tuyên ngôn đã khẳng định  “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự 
do”, nhưng đảng cầm quyền lại nắm trong tay trọn quyền “xin-cho” nên 
người dân “chưa hề có tự do” như nhà nước nói.
No comments:
Post a Comment