Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt
quan trọng của thế giới, là một tổn thất hết sức to lớn của những người
cộng sản trong quá trình hiện thực hóa học thuyết Mác - Lênin. Sự tan
rã của Liên bang Xô viết vào cuối 1991 đã làm thay đổi căn bản cục diện
chính trị thế giới.
Trong
giai đoạn 1918 - 1920, nước Nga Xô viết nằm trong vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ (được sự hậu thuẫn của nước ngoài) tấn
công từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn này, nước Nga Xô
viết non trẻ lâm vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự lãnh đạo của
Lênin và Đảng Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách thức hiểm
nghèo để tiếp tục phát triển.
|
Cuộc duyệt binh của các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô ở Quảng trường Đỏ.
|
Sau hơn bảy chục năm
tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước,
Liên Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to
lớn về quân sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên xô đủ sức đương đầu
với hệ thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt
động hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới.
Liên Xô tan rã khi đã đạt đến đỉnh cao.
Tại sao?
Đã có hàng trăm, thậm
chí hàng nghìn bài viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề
này, trong đó các cuốn sách của những người trong cuộc đưa ra lời giải
có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ niệm 96 năm Cách mạng tháng Mười Nga
(7/11/1917 - 7/11/2013), bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn cận
cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
1. Hệ thống XHCN hiện thực với Liên Xô làm trụ cột đã có đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của thế giới.
Trong nửa sau của thế
kỷ XX, trên thế giới có hơn một chục Đảng Cộng sản cầm quyền, hình thành
một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương,
hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại
của hệ thống XHCN hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã
vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực
dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới. Xét đến cùng, sự hình thành
và phát triển của phong trào không liên kết là thành quả của cuộc đấu
tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là thành tựu to lớn của các
Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách khác, chính những
người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước
thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình phát
triển văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm
quyền đã xây dựng được một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN),
trên nhiều lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn
chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến nay, sau 22 năm Liên Xô tan rã, vẫn có
59% người Nga được hỏi ý kiến cho rằng ở chủ nghĩa xã hội nhiều điều
tích cực hơn là tiêu cực, và đa số người Nga vẫn nuối tiếc thời Xô viết
vàng son.
Thật trớ trêu, chính
các Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên
Xô, lại để mất quyền lãnh đạo, làm cho hệ thống XHCN hùng mạnh được họ
dẫn dắt hàng trăm triệu người xây dựng nên sụp đổ, tan rã. Cần lưu ý
rằng Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, Liên Xô tan rã mà không
thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế quốc.
Thực chất, Đảng Cộng
sản Liên Xô, trực tiếp và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCHTƯ đã tha hóa, đã
tự đánh mất mình và làm cho Liên Xô tan rã. Chính những người lãnh đạo
cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị Đảng CSLX đã thừa nhận điều đó. Tất
nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực chống cộng quốc tế thông qua
chiến lược “diễn biến hòa bình” cũng là một nguyên nhân làm cho Liên Xô
tan rã, nhưng chắc chắn không phải là nguyên nhân chính, không phải là
nguyên nhân chủ yếu.
2. Đảng Cộng sản Liên Xô đã tha hóa, biến chất như thế nào?
Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn sau đây:
- Một là, Đảng Cộng
sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp
nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp
dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân
theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù
địch, khi cần thiết bảo vệ “cái uy” của mình, họ sẵn sàng đối xử với
đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh hoạt, đảng
mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ
nhạt, khô cứng, độc thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên
trung kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại,
những kẻ cơ hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính
trị, BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất
quan hệ máu thịt giữa Đảng CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm
cho những người lãnh đạo các cấp của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có
hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ
thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, thậm chí không
có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ, oan ức của một bộ phận
quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng viên, cán bộ cấp
dưới.
- Ba là, những suy
thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ
chốt với những biểu hiện nổi bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân,
gia đình và người thân lên trên lợi ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ
địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người thân tín với mình, kể cả
những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống vào những vị trí
lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống xa hoa, nói
một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối
sống.
Trên đây là những biểu
hiện nổi bật chủ yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của
Đảng Cộng sản Liên Xô, nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái
hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì
mới trở thành nguy cơ đối với Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp
đổ. Đảng Cộng sản Liên Xô và các “phiên bản” Đông Âu của nó thuộc trường
hợp này.
Thông thường các biểu
hiện trên không tồn tại biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với
nhau, tác động với nhau, có lúc cái này làm tiền đề, điều kiện cho cái
kia tồn tại và phát triển. Những biểu hiện thoái hoá nói trên, không
bỗng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình từ chớm nở như một ung nhọt
nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh tật này lặng lẽ tích
dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức chiến đấu,
thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, khả
thi. Trong Đảng CSLX đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng
viên giàu lên nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó
khăn; nhiều đảng viên nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác
ngoài cuộc họp, suy nghĩ một đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu
trong sinh hoạt đảng dần dần nguội lạnh, nhiều đảng viên trở nên thờ ơ
trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến vận mệnh của Đảng CSLX.
Theo Ph. M. Rudinxki,
có thể chia 20 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô làm 4 loại: 1,
Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực
hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng
hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội , xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy
công quyền) ; 4. Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu
biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không dám phát biểu).
N. I. Rưscôp, nguyên
ủy viên Bộ Chính trị ĐCS Liên Xô, Thủ tướng Liên Xô (1985 - 1990) cho
rằng: Tồn tại hai Đảng trong Đảng Cộng sản Liên Xô: Một đảng của hàng
chục triệu đảng viên bình thường và một đảng của những quan chức chóp bu
trong hệ thống đảng, nhà nước Liên Xô . Những đảng viên nắm quyền lực ở
cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt với hàng chục triệu đảng viên bình
thường. Số đảng viên này, về thực chất, không đại diện và bảo vệ lợi ích
của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách bám giữ quyền lực vì lợi
ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể
trên, đại bộ phận quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo
của Đảng CSLX, thờ ơ đối với những vấn đề chính trị trọng đại của đất
nước, thậm chí có một số trông chờ, mong muốn có sự thay đổi. Chính đó
là trạng thái trong Đảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô vào
cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đêm trước của sự sụp
đổ, tan rã (1989 - 1991).
3. Thử bàn về các nguyên nhân.
Về hoạt động chống phá
của Mỹ và các thế lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông
tin, tư liệu để khẳng định. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế
thị trường cũng là một nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu
mặt trái của cơ chế thị trường thì khó lòng giải thích được những thoái
hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ
Mao Trạch Đông, Xtalin và Prêz nép lãnh đạo, vì thời Mao, thời Xtalin,
thời Prêz nép chưa có kinh tế thị trường.
Nghiên cứu kỹ quá
trình thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô, kể cả những đảng cầm quyền
rồi mất quyền và những đảng hiện nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra
hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ
chức, trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản
Liên Xô chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự
trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ,
nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSLX (quan
liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức, lối sống,
chia rẽ mất đoàn kết…). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện
sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bôn - sê -
vích Nga dưới thời lãnh đạo của Lênin là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu
dân chủ trong sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSLX thiếu
thông tin nhiều mặt về một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng
quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt
đảng thường là độc thoại một chiều từ những người lãnh đạo cao nhất,
thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu dân chủ, nên những đảng
viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ để thể hiện ý
tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất không có
đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường
lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược
với quy luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một
trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị
rất nhiều nhưng việc đưa vào cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn
ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ
ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết
hệ thống, có thể xem một tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho
hệ thống đó tồn tại bền vững, nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu
thiếu trao đổi thông tin (theo 2 chiều thuận - nghịch, từ trong ra
ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ thống đó sẽ bị đổ vỡ để
chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong sinh hoạt đảng, tức
là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong đảng ra ngoài
xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra thoái
hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu
không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số
đảng viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng
Cộng sản Liên Xô để chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ,
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn - sê - vích Nga từ năm 1903. Điều lệ
Đảng Cộng sản Liên Xô, qua nhiều lần thay đổi, vẫn là một văn bản quy
định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên. Tại
sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Xta - lin,
Prêz-nhép, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản
bội của Góoc - ba - chốp? Cớ sao hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng sản
Liên Xô không có phản ứng gì khi Góoc - ba - chốp tuyên bố giải tán
Đảng? Không thể nói cách khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và
không có cơ chế giám sát quyền lực hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ
chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của Bộ Chính trị là nguồn gốc
sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh đạo Đảng CSLX, làm
cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên), nhưng
không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng
CSLX trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện
giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một
nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự
tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là “chống đối”, “là phản
động”, “là chống Đảng”, thậm chí là “phản bội Tổ quốc”…
Cũng do thiếu dân chủ
trong sinh hoạt Đảng mà các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau
rất lỏng lẻo, đảng mất hết sức sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong
nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong
Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở
Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một quá trình phân hóa trong đảng, cả trong
sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Các đảng viên nghĩ một
đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện chính kiến của mình ngay cả
đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong cuộc họp người ta
nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp người ta nói
riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành vi
cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và đặc
biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi
tan rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản
cầm quyền vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt
đại bộ phận nhân dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa
số đảng viên là tin cậy, trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ
trong sinh hoạt Đảng mà Đảng CSLX đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán
bộ, đào tạo cán bộ, tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ
chốt trong Đảng, trong Nhà nước. Thiếu dân chủ là bà đỡ của thói nịnh
bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ
phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai
cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn cũng xác nhận điều đó.
Nhưng Đảng CSLX phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố trí cán bộ.
- Hai là, sự thoái hóa
của Đảng CSLX là do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng
viên trước hết giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín
muồi về mặt chính trị, chưa thực sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng
cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều tuyên thệ về sự giác ngộ lý
tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ phấn đấu vì lợi ích
của giai cấp, của những người lao động, nguyện trung thành với lý tưởng
cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn luyện và trong
hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa hẹn của
mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của
đảng. Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa
đó.
Tất nhiên, còn nhiều
vấn đề thuộc về nguyên nhân và điều kiện làm cho Đảng CSLX thoái hóa,
Liên Xô tan rã. Ở đây chúng tôi không có điều kiện để trình bày tất cả,
chỉ nêu ra những nhân tố quan trọng nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là
nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng cầm quyền nói chung, của Đảng CSLX
nói riêng.
*
* *
Năm 2013, nhân dân Nga
nói riêng, nhân dân 15 nước Cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) cũng như nhân
dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ nói chung, kỷ niệm 96 năm Cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 - 7/11/2013). Chủ nghĩa xã hội đã tồn
tại 74 năm tại nước Nga (1917 - 1991) và Liên Xô tan rã đã 22 năm (1991 -
2013). Người Nga nói riêng, nhân loại tiến bộ nói chung, còn phải tiếp
tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức thuyết phục về những
vấn đề liên quan đến sự tan rã của Liên Xô.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng ta khái quát ba vấn đề lớn sau:
- Một là, từ Cách mạng
tháng Mười Nga đến khi Liên Xô tan rã (1917 - 1991) có thể phân kỳ như
sau: 1. Thế hệ cách mạng đầu tiên do Lênin lãnh đạo đã đưa nước Nga Xô
viết non trẻ vượt qua thử thách “ngàn cân treo sợi tóc” 1917 - 1920 để
tồn tại và phát triển; 2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Stalin lãnh đạo đã
tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít Đức - Nhật - Ý và đưa Liên Xô trở thành
cường quốc thế giới; 3; Thế hệ lãnh đạo thứ ba ở Liên Xô từ Khơrusốp đến
Bregiơnép là những người đã tham gia Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941 -
1945) và họ đã đưa Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu thế giới; 4.
Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Góocbachop, là những người sinh
ra trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chưa nếm trải thử thách
của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho Đảng CSLX mất quyền lãnh đạo, làm cho Liên Xô tan rã.
- Hai là, thế hệ lãnh
đạo thứ tư ở Liên Xô với Góocbachop là hạt nhân đã nắm trong tay mọi
quyền lực và mọi nguồn lực của đất nước, nhưng họ không thuận theo lòng
dân, không được dân ủng hộ nên đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị
lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm
được mọi quyền lực và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được
lòng dân. Những ai không nắm được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi
đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng
sản đang cầm quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của
Đảng CSLX, từ sự tan rã của Liên Xô để vượt qua chính mình vì hạnh phúc
của nhân dân và sự hưng thịnh của đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm
rất khó tránh, nhưng không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là
không dám thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm
chính trị để tránh sai lầm, khắc phục khuyết điểm.
Theo Lê Văn Cương (Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược Bộ Công an)