Wednesday, May 1, 2013

Vài cảm nghĩ về sự kiện Người Việt tị nạn Lưu Lệ Hằng lãnh giải Kavli và Shaw được mệnh danh là giải Nobel về Thiên Văn cả Tây lẫn Đông

Giải Kavli và Shaw là Nobel về Thiên Văn
Lưu Lệ Hằng, tên Mỹ là Jane Luu, được nhận giải thưởng Kavli cùng Jewitt và Brown,và giải thưởng Shaw cùng Jewitt, do khảo cứu thiên thạch, sao chổi và sự hiện hữu của vành thiên thạch quanh mặt trời mà Kuiper đề án năm 1951.
Giài thưởng Kavli, 1 triệu USD, phát 2 năm một lần cho ba ngành là thiên văn, khoa học nano, và khoa học neuro, do chính vua Na Uy chủ tọa, được mệnh danh là Nobel về các ngành khoa học này vì Nobel không nghĩ tới khi thiết lập giải Nobel. Do Kavli Foundation tại Na Uy tài trợ bắt đầu từ năm 2008, giải Kavli được sự hỗ trợ lựa chọn bởi 5 viện hàn lâm quốc tế: Trung Quốc, Pháp, Đức, Mỹ, và Na Uy. (xem Wikipedia về Kavli).
Giải thưởng Shaw, đáng giá 1 triệu USD, do Shaw Foundation thành lập năm 2002 tại Hong Kong, phát mỗi năm một lần, được mệnh danh là Nobel Phương Đông, vinh danh những nhà khoa học còn sống đã có đóng góp đáng kể vào các ngành thiên văn, sinh học, và toán học. Như vậy là về toán học, nó to hơn giải Fields là giải 15 ngàn USD phát bốn năm một lần cho các thiên tài toán học dưới 40 tuổi. Sự lựa chọn người trúng giải là do một hội đồng thay đổi hằng năm và gồm các khoa học gia chuyên môn nổi tiếng. Thống đốc Hong Kong (tự trị) là người chủ tọa lễ phát giải ngày 17 tháng 9 năm 2012. (Xem Wikipedia về Shaw và Fields.)

Lưu Lệ Hằng là người Việt gốc Bắc, sinh năm 1963 tại Saigon, tị nạn qua Mỹ năm 1975 khi mới 11-12 tuổi. Theo tiểu sử do mình tự viết, Hằng có một đời sống khá bình thường ngay trong thời buổi chiến tranh, cha làm thông dịch viên tiếng Anh và tiếng Pháp, mẹ ở nhà, sống tại Saigon có nhiều bà con họ hàng, học trường Pháp, không có khái niệm gì về chiến tranh ngay cho tới khi phải di tản với một xách tay nhỏ vào tháng 4 năm 1975. Tới Mỹ, Hằng được người bảo trợ đặt tên cho dễ nhớ là Jane Luu, sống 1 năm tại tiểu bang Kentucky với mẹ, chị và hai em nhờ người dì đã có cơ ngơi sẵn tại Mỹ che chở trong khi cha ở lại California đi học và tìm việc. Khi cha của Hằng có việc, cả nhà tới ở Ventura ngoại ô Los Angeles, cha làm kế toán, mẹ làm việc lắp ráp điện tử.
Ngày 4 tháng 9 nàm 2012, Lưu Lệ Hằng lãnh giải Kavli 1` triệu USD từ vua Na Uy Harald chia với giáo sư Jewitt và giáo sư Brown.. Giải Kavli được mệnh danh là Nobel về thiên văn tại chính quê hương của Nobel là vùng Thụy Điển-Na Uy-Đan Mạch.
Hằng học tiếng Anh trôi chẩy từ năm đầu, theo học các lớp trung học một cách thoải mái và cho là quá dễ, được hiệu trưởng “mời” nhẩy lớp 8 lên lớp 9, và khi đậu ra trường lớp 12 thì đứng thủ khoa. Với thành tích xuất sắc, Hằng được nhiều trường giỏi nhất ở Mỹ nhận học, như Princeton, Massachussetts Institute of Technology (MIT), Stanford, và cô đã chọn Stanford (gần San Francisco) vì trường đó cho học bổng nhiều nhất. Ban đầu học ngành kỹ sư cơ khí do cha đề nghị, nhưng sau đổi sang vật lý vì thấy nó căn bản hơn. Sau khi đậu cử nhân, Hằng làm việc hè tại Jet Propulsion Laboratory của NASA (National Aeronautics and Space Administration –Cơ quan không gian và vũ trụ Mỹ) và rất ấn tượng với các hình ảnh chi tiết của các hành tinh treo trên tường hành lang. Cô đã quyết định học cao học về thiên văn và nộp đơn xin học tại MIT. Tại đó, Hằng có cơ may gặp giáo sư trẻ tuổi (sinh năm 1958) gốc Anh là David Jewitt, người đang khảo cứu nguồn gốc các thiên thể có chu kỳ ngắn như sao chổi trong thái dương hệ. Với căn bản vững chãi và một ý chí kiên trì, Lưu (nay gọi tên gia đình họ của Hằng cho tương đương với các đồng sự) và Jewitt đã làm việc đêm ngày theo đuổi đề án của nhà thiên văn Hà Lan Kuiper đưa ra từ năm 1951, là mặt trời phải có một vành thiên thạch. Họ có niềm tin là ngoài Pluto không thể chỉ có khoảng không, vì NASA đã dùng vệ tinh IRAS chụp được một vành thiên thạch quanh sao Vega.
Lưu lấy bằng tiến sĩ năm 1990 và đã nổi tiếng về các khảo cứu sao chổi. Năm 1991 hội Thiên Văn Mỹ trao giải thưởng Cannon cho Lưu và đặt tên một thiên thạch do Lưu khảo cứu là Asteroid 5430 Luu. Lưu được nhận làm khảo cứu thiên văn tại Harvard và vẫn tiếp tục công việc khảo cứu vành Kuiper với Jewitt lúc đó đã làm giáo sư tại Hawaii.
Sau 5 năm ròng rã, dùng các phương tiện tại MIT, Harvard, Kitt Peak (Arizona) và Mauna Kea (Hawaii), cùng là nhờ các dụng cụ quan sát nhậy bén mới gọi là CCD (charge-coupled devices), năm 1992 Jewitt và Luu tìm ra được thiên thạch 1992 QB1 đường kính 280 km (bằng 1/8 Pluto) mà họ gọi là Smiley theo tiểu thuyết trinh thám của John LeCarre’. Khám phá này, rồi 20 khám phá thêm sau đó, và cả trăm khám phá khác do cộng đồng thiên văn cộng hưởng, đã chứng minh sự hiện hữu của vành Kuiper, và mở đầu cho một kỷ nguyên mới về khoa học Thái Dương Hệ cùng là thuyết khai thiên lập địa.
Ngày 17 tháng 9, 2012, Lưu Lệ Hằng lãnh giải Shaw tại Hong Kong được mệnh danh là Nobel Phương Đông, chia 1 triệu USD cùng giáo sư Jewitt về thiên văn. Ba người kia lãnh giải về sinh học (Ulrich Hartl và Horwich) và toán (Kontsevich)
Sau khám phá của Jewitt và Luu, Michael Brown (sinh năm 1965) được NASA bảo trợ một chương trình lớn tại Jet Propulsion Laboratory tìm các thiên thạch và hình dung vành Kuiper bằng cách chia không gian làm 10 ngàn ô quan sát. Năm 2005 Brown tìm ra thiên thạch Eris to bằng Pluto (2300 km), khiến Hội Thiên Văn Quốc Tế phải lập lại bảng các hành tinh, chỉ coi Pluto là một Hành Tinh Lùn (Dwarf Planet) như Eris, mà không phải là hành tinh giống Neptune hoặc trái đất. Và người ta biết rằng vành Kuiper có tới cả tỉ thiên thạch mà tổng cộng không nặng quá 6 lần trái đất, trong đó có cả chục ngàn thiên thạch to hơn 100 km. Các thiên thạch (hay thiên sơn) này luân lưu do Neptune (Hải Vương Tinh) điều hành.  Vị nào chuyển động bất thường thì bị hút vào không phận của các hành tinh và trở thành sao chổi tiến sát mặt trời và đôi khi đụng các hành tinh như Jupiter (Thiên Vương Tinh) hoặc sao Hỏa hoặc trái đất. Mới đây vài năm, 5 sao chổi đã đâm vào Jupiter với sức nổ gấp cả triệu lần bom nguyên tử 20 kiloton nổ năm 1945 tại Hiroshima. Lịch sử trái đất đã có nhiều thiên sơn đụng phải, có lần làm mọi sinh vật chết hết vì tro bụi bao trùm khí quyển nhiều năm che lấp ánh sáng mặt trời. Tương lai một cuộc tận thế của loài người như vậy là có xác suất, và người ta đang nghĩ cách đo lường trước và ngăn ngừa bằng cách dùng bom nguyên tử hoặc phương pháp khác để đánh lạc sao chổi đó khi nó trên đường có thể đụng vào trái đất.
Từ năm 1992 tới 2001, Lưu đã khảo cứu và giảng dạy tại Berkeley, Stanford, Harvard, và Leiden (Hà Lan). Từ 2001 tới nay Lưu làm kỹ sư thiết bị tại Lincoln Laboratory của MIT vì không thích không khí ganh đua “ghế” tại các đại học, trong khi đó Lincoln Laboratory có ngân sách của chính phủ khảo cứu các thiết bị phòng ngừa khủng bố.
Lưu chia tiền thưởng Kavli 1 triệu USD với Jewitt và Brown, và chia tiền thưởng Shaw 1 triệu USD với Jewitt. Lưu có chồng tên là Hoogerwerf, một nhà thiên văn người Hà Lan, và một con trai 6 tuổi. Hiện gia đình Lưu sống tại Lexington, Massachusetts, gần đại học Harvard và MIT.
Với hai giải thưởng tầm cỡ Nobel về thiên văn, Lưu có thể sẽ không phải lo về các “tranh giành các ghế” trong đại học nữa (khi bỏ đi làm kỹ sư thiết bị,) mà có thể sẽ là một giáo sư thực thụ tại một đại học có chương trình thiên văn nổi tiếng như Harvard, MIT, Hawaii, Arizona hoặc California Institute of Technology (Caltech).
Vài Cảm Nghĩ về Sự Kiện
Lưu Lệ Hằng trở thành một trong số người Việt đóng góp sáng chói cho khoa học như Ngô Bảo Châu, Võ Đình Tuấn, Nguyễn Hữu Xương, Nguyễn Xuân Vinh, Dương Nguyệt Ánh. Và họ cũng làm người Việt vẻ vang trên trường quốc tế như nhiều thiên tài khác trong các ngành nghệ thuật, chính trị, kinh tế; ví dụ Đặng Thái Sơn, Đinh Đồng Việt, Philip Roesler, Carol Huynh, Thanh Truong (xem Wikipedia về Famous Vietnamese Names). Tôi cảm thấy rất tự hào về người Việt.
Tuy nhiên, lòng tự hào của tôi bị hãm lại bởi một thực tế rất phũ phàng. Ta có thực sự nổi trội trên thế giới không? Các nước khác cùng một quá khứ giống ta như Nhật, Hàn, Đài Loan, Singapore… có được những thành tích đáng phục đó không? Tại sao với mỗi tin thành công của một người Việt lai có cả trăm tin thất bại-đau khổ của người Việt khác? Tại sao phần lớn các người thành công đột trội trên lại là nhờ học và làm việc tại ngoại quốc và sẽ không bao giờ trở lại làm việc toàn thời gian tại Việt Nam?
Nhìn vào các thống kê của các ngành nghề, tôi thấy người Việt cũng chẳng hơn ai, còn thua nhiều dân tộc khác là đằng khác, nhưng cái thua này –ít giải thưởng, ít sáng chế, ít giầu có—là vì một lý do rất dễ hiểu: Cơ chế và lãnh đạo đất nước Việt Nam tồi quá, không những ngày nay mà trong cả chiều dài của lịch sử. Lịch sử của Việt Nam là cả ngàn năm chiến tranh chống ngoại xâm và huynh đệ tương tàn, chứ không phải là một lịch sử hòa bình gây hạnh phúc cho người dân. Lãnh đạo ta làm những việc mà họ chưa hề được học đến nơi đến chốn theo chiều hướng văn minh, và họ không có đủ trí huệ để không ham quyền cố vị và chiêu tụ người tài làm tốt cho xã hội. Cơ chế của ta cóp nhặt mỗi nơi một chút nhưng bắt chước hoài cũng không thông rồi còn nói làm “theo cách Việt Nam”. Hèn chi hỏi 1000 người trong nước có hạnh phúc sung sướng không thì phải có đến trên 900 người có phàn nàn này nọ. Hèn chi học sinh ra trường ít có việc làm để thực thi những điều đã học. Và hèn chi muốn học và thành nghề tới nơi tới chốn thì phải ra nước ngoài, Cũng hèn chi những người đã thành đạt tại nước ngoài thì ít muốn về Việt Nam làm việc vì không những lương ít, phương tiện ít, mà còn gặp phải những cản trở vô lý về cơ chế.
Tôi thấy có tâm trạng giống như Phan Chu Trinh 100 năm về trước:
Người mình đã vụng về trăm thức,
Lại khoe rằng “sĩ nhất tứ dân”;
Người khanh tướng, kẻ tấn thân,
Trăm nghề hỏi có trong thân nghề nào?
Chẳng qua là quơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ của dân…

Thư tâm tình gửi các bạn chống cộng quá khích (hahahahaha. yeah your're right hahahaha)

Nguyễn Thành Công

Tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Bắc, vào quân đội, ra chiến trường nhưng không tham gia đơn vị chiến đấu mà ở đơn vị hậu cần. Vì vậy tôi chưa hề bắn súng vào bất kỳ ai. Tuy nhiên, trong một đợt ném bom của không quân Mỹ tôi bị thương, không nặng lắm, được đi điều trị, khi trở lại đơn vị thì miền Nam đã giải phóng. Tóm lại, cuộc sống của tôi cũng bình thường như nhiều người khác. Vào mấy năm gần đây, gia đình tôi nằm trong diện phải giải phóng mặt bằng. Nói thế chắc các bạn biết rồi. Tôi gia nhập vào nhóm những người được gọi là dân oan, thường xuyên đến trước cổng cơ quan nhà nước đòi giải quyết quyền lợi mà chưa biết đến bao giờ mới xong.

Ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, tôi làm quen với nhiều người dân oan khác, tìm hiểu hoàn cảnh của họ. Hóa ra không phải chỉ có gia đình tôi, quê tôi đang bị nhà nước cướp đất mà khắp nơi trong nước đang diễn ra tình trạng cướp đất, ngày càng tàn khốc, ngày càng trắng trợn. Tôi cùng với nhân dân bị oan khuất bắt đầu đấu tranh, giúp đỡ lẫn nhau trong cơn hoạn nạn. Thế rồi những người bạn dân oan của tôi hướng dẫn tôi sử dụng mạng vi tính. Cả một chân trời thông tin ào đến với tôi. Từ mạng, tôi biết có nhiều người đang đấu tranh đòi quyền dân chủ, tự do cho đất nước. Cuộc đấu tranh của dân oan được các bạn ở hải ngoại ủng hộ trên mạng. Quả thật chúng tôi rất mừng. Tôi còn biết thêm nhiều bạn trước đây đã vượt biển, chịu bao sóng gió, nguy hiểm để đến được một nước nào đó. Đến nay những người ấy đếu thành đạt, sống ở nước ngoài mà vẫn đau đáu nhìn về quê hương. Nhiều bạn lên tiếng đòi dân chủ cho nhân dân, tự do cho tổ quốc. Tuy nhiên, đọc thông tin trên mạng có một số bạn, nhiều người gọi là "chống cộng quá khích" tôi rất lấy làm tiếc. Tôi nghĩ tâm nguyện của các bạn chống cộng quá khích chỉ muốn mang lại những điều tốt đẹp cho đất nước chứ không hề định cản trở cuộc đấu tranh của nhân dân. Nhưng các bạn nóng lòng sốt ruột, đặt ra những yêu cầu "quá khích", nếu ai không đồng ý thì các bạn tập trung "ném đá" dữ dội, vô hình trung làm hại nhiều người tích cực đang đứng trong mũi nhọn của cuộc đấu tranh.

Có một lần vào Huế, tôi nói chuyện với một người lái xe ôm. Tôi hỏi: Trước năm 75 anh làm nghề gì? Trả lời: Tôi đi lính ngụy! Tôi nói: Anh không nên nói thế, phải nói là gia nhập quân lực Việt Nam cộng hòa oai hùng. Oai hùng chứ không anh hùng. Một quân đội vứt súng chạy như vịt thì không thể gọi là anh hùng, tuy trong đó cũng có những người đáng gọi là anh hùng. Mà tại sao các anh lại vứt súng bỏ chạy thế? Trả lời: Vì chỉ huy chạy hết rồi còn đâu! Tôi nói: Không nói thế được đâu, nếu chỉ huy chạy thì sao anh không lên nắm quyền chỉ huy để tiếp tục chiến đấu? Phải xử bắn tại chỗ những tên chỉ huy hèn nhát, rồi vừa chiến đấu vừa binh vận, thuyết phục chúng tôi trở về bảo vệ đồng bào miền Nam mới phải chứ? Đến đây thì người cựu binh quân lực Việt Nam cộng hòa im bặt, không trả lời được nữa. Tôi hỏi tiếp: Anh có là sĩ quan không? Trả lời: Sĩ quan cấp thấp. Lại hỏi: Thế tại sao năm 75 anh không rút súng tự xử để bảo vệ lý tưởng? Lại im lặng.

Tôi hỏi tiếp: Các anh có biết vì sao mình thua không? Trả lời: Vì các anh giỏi hơn! Tôi nói: Không phải, anh nhầm lớn, chúng tôi không giỏi hơn các anh. Tôi là một cựu chiến binh miền Bắc, được đảng và nhà nước đào tạo, giáo dục, khi vào miền Nam tôi thấy trình độ chung của chúng tôi kém các anh nhiều. Các anh có học hơn, sống với nhau có tình, ứng xử rất có văn hóa. Chẳng hạn khi vào thành phố hỏi đường, anh em miền Nam chỉ đường nhiệt tình, vui vẻ, dễ mến, mặc dù lúc đầu chúng tôi khó chịu vì có anh để tóc dài. Lại trả lời: Vì bên giải phóng được viện trợ nhiều súng đạn hơn! Tôi nói: Anh lại nhầm, lúc ở chiến trường chúng tôi không nhiều súng đạn hơn các anh. Lại trả lời: Vì miền Nam bị Mỹ bỏ rơi, còn miền Bắc được Liên Xô, Trung Cộng chi viện. Tôi nói: Anh vẫn nhầm, thế anh có biết năm 1972 tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc, báo Nhân dân ở Hà Nội đăng bài xã luận cho rằng bị phản bội không? Năm 1972 Trung cộng bắt tay với Mỹ, bỏ rơi Việt Nam. Nói bị bỏ rơi thì chính miền Bắc mới là người bị bỏ rơi. Tôi nói thêm: Khi QĐND Việt Nam tiến đến Xuân Lộc, anh có biết là các chiến sĩ quân lực VNCH đã chiến đấu kiên cường tới mức QĐND VN phải né tránh đi vòng đường khác không? Điều đó nói lên rằng một bộ phận quân lực VNCH (đáng tiếc cho các bạn, chỉ có một bộ phận chứ không phải là toàn quân) đã chiến đấu xứng đáng là người lính trên chiến trường. Nếu toàn thể quân lực VNCH chiến đấu như thế thì hôm nay các bạn không phải hối hận, những người như chúng tôi không phải lấy làm tiếc cho các bạn, cũng là cho chính chúng tôi. Tổ quốc Việt Nam cũng khác chứ không phải như hôm nay!

Nhiều khi tôi tự hỏi: Vì sao quân lực VNCH lại thua trận và sụp đổ hoàn toàn được nhỉ? Khi người Mỹ rút quân, đã để lại cho miền Nam một số lượng vũ khí khổng lồ, rất hiện đại. Chẳng hạn, theo đài Sài Gòn lúc ấy, không quân VNCH đúng thứ ba trên thế giới về số lượng. QĐND VN không được viện trợ khẩn cấp, chỉ dùng những thứ đã được viện trợ từ trước, tức là không hơn gì về vũ khí. Ngày hôm nay rất nhiều bạn cựu chiến binh quân lực VNCH đổ lỗi cho việc thiếu vũ khí, rồi bị Mỹ bỏ rơi... tôi thấy không thuyết phục. Nếu không chỉ đúng nguyên nhân của thất bại thì các bạn không rút được kinh nghiệm và sẽ lại tiếp tục thất bại thôi.

Vậy vì sao quân lực VNCH thất bại, nói rộng hơn vì sao chính quyền VNCH thất bại?

Chính quyền VNCH thất bại vì thiếu yếu tố căn bản quyết định sự tồn tại của nó, cũng là yếu tố quyết định thắng bại của mọi cuộc chiến tranh: yếu tố nhân dân. Bây giờ các bạn thử nhìn lại cuộc chiến từ đầu. Vừa lên làm tổng thống VNCH ông Ngô Đình Diệm đã hô hào "Bắc tiến". Thậm chí nhà thơ Vũ Hoàng Chương còn làm thơ cổ vũ: Hẹn một ngày mai về cố đô / Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ... Sau đó ông Diệm tung nhiều toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc nhằm gây dựng lực lượng. Nhưng tất cả các toán gián điệp biệt kích đều bị bắt, không một toán nào đứng chân trên miền Bắc được. Thậm chí công an miền Bắc còn lập chuyên án, tổ chức bắt giữ các toán mới thâm nhập để thụ vũ khí, vật dụng...Ngược lại, nhiều tốp cán bộ miền Bắc trở vào Nam, xây dựng các khu căn cứ để nhận vũ khí từ ngoài Bắc chuyển vào, phát động chiến tranh du kích. Tại sao Tổng thống Ngô Đình Diệm thất bại trong việc thâm nhập miền Bắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại thắng lợi trong việc cử cán bộ thâm nhập miền Nam. Đấy là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác tốt yếu tố nhân dân. Đất nước nào thì nhân dân cũng là tập thể có nhiều thành phần. Có bộ phận nhân dân luôn ủng hộ chính quyền, có bộ phận khác thì chống chính quyền, và có bộ phận chỉ biết làm ăn, không tham gia vào các phong trào chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã khai thác sự ủng hộ của bộ phận nhân dân ủng hộ ông ngay tại miền Nam, vì vậy tạo dựng được các căn cứ để chuyển quân từ Bắc vào Nam tiến công đánh đổ chính quyền VNCH. Vào đầu năm 1975 QĐND VN có thể đưa xe tăng tiến vào các thành phố lớn ở miền Nam. Thế xăng ở đâu để cấp cho xe tăng? Các bạn cứ hình dung công binh miền Bắc đã lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu vào sâu trong đất miền Nam, áp sát ngay các thành phố. Vì sao công binh miền Bắc làm được điều đó? Vẫn là yếu tố nhân dân. Không có nhân dân, QĐND VN không đủ hậu cần cho cuộc tiến công, đương nhiên sẽ không có cái ngày 30/4/1975. Suôt cả cuộc chiến, quân lực VNCH có thể tấn công vào Căm-pu-chia, sang Lào nhưng chưa bao giờ tấn công ra miền Bắc. Vì sao vậy? Nếu tiến công ra Bắc để ngăn chặn chiến tranh từ gốc của nó thì sao? Các tướng lĩnh quân lực VNCH cho rằng quân miền Bắc xuất phát từ Căm-pu-chia tiến vào miền Nam nên tấn công sang để ngăn chặn từ xa, thế thì tại sao không tấn công tận gốc là miền Bắc? Lý do đơn giản vì nếu đổ quân ra Bắc thì chắc chắn thất bại. Kinh nghiệm cho thấy ngay việc tung các toán gián điệp biệt kích ra cũng không thành công, lấy cơ sở nào để nói tiến ra Bắc thắng lợi. Chúng ta lại thấy yếu tố nhân dân quyết định thắng bại trong cuộc chiến. Tôi có thể nói thêm: Tháng 4/1975, khi quân giải phóng tiến vào, người dân ở thành phố miền Trung bỏ chạy về phía Nam. Nếu giả định không phải là quân giải phóng tiến vào Nam mà là quân lực VNCH tiến ra Bắc thi cái gì sẽ xẩy ra? Chắc chắn nhân dân miền Bắc sẽ tiến hành chiến tranh du kích tại những vùng quân lực VNCH chiếm được. Nhân dân sẽ không bỏ chạy đâu, đó chính là nét khác biệt với tình hình ở miền Nam.

Sau ngày 30/4/1975, chính quyền cộng sản bắt đầu thực hiện các chính sách cải tạo xã hội. Bản chất các chính sách này là sai, không phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Nền kinh tế xuống dốc làm nhân dân cả nước sống trong đau khổ triền miên. Chính sách đổi mới nửa vời tuy có làm đời sống thay đổi chút ít nhựng Việt Nam vẫn ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Đến lúc toàn khối XHCN Đông Âu sụp đổ thì đảng cộng sản Việt Nam mất chỗ dựa chính trị, bí bách phải bám vào Trung Quốc. Đây là chỉ dấu cho chúng ta biết các nhóm lợi ích điều khiển đảng cộng sản đã tách khỏi nhân dân. Kể từ đó các nhóm lợi ích giành giật nhau quyền lãnh đạo, chà đạp lên toàn thể nhân dân, vơ vét biến của chung thành của riêng nhóm lợi ích. Biểu hiện bề mặt của chuyện này là các chính sách cướp đất, rửa vàng... Nhóm lợi ích đã trở thành giặc nội xâm tàn bạo nhất trong lịch sử 4000 năm dựng nước của dân tộc ta. Có áp bức thì có đấu tranh. Nhân dân bị áp bức nhiều tỉnh thành đấu tranh, nổi bật nhất là chống cướp đất. Cuộc đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là dân oan toàn quốc đã và đang thức tỉnh ngay cả những đảng viên cộng sản lão thành, có nhiều năm cống hiến cho đảng. Đây là cuộc đấu tranh mà một bên là các nhóm lợi ích trong đảng cộng sản Việt Nam, một bên là toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên trung kiên của đảng. Chúng ta cần đoàn kết toàn bộ những người yêu nước, yêu nhân dân, không kể đến quá khứ của họ. Những đảng viên "trung kiên", "chân chính" của đảng cộng sản, nếu đứng về phía nhân dân thì cần được hoan nghênh, ủng hộ. Không nên đề ra những yêu cầu quá khích cho bất cứ ai, nhằm đoàn kết rộng rãi nhất với mọi người. Chúng ta đấu tranh không phải để "xả giận" cho thất bại trước đây, không phải để "trả thù" kẻ áp bức chúng ta, cho dù những kẻ áp bức ấy thực sự mất hết tính người. Chúng ta đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội dân sự trên nước Việt Nam này, ở đó ai cũng được tự do, bình đẳng trước pháp luật, được quyền sống và mưu cầu hạnh phúc.

Tôi có lúc đã ngưỡng mộ, thán phục một số người chống cộng như Nguyễn Khoa Nam, Lý Tống... Nghe tin Lý Tống cưỡi lên máy bay, rải truyền đơn giữa Sài Gòn tôi hết sức thán phục. Đấy là hành động anh hùng giữa đời thường. Nhưng khi nghe chuyện Lý Tống xả thuốc mê vào ca sĩ Việt cộng trên sân khấu thì hình ảnh Lý Tống đã chết trong tôi. Lý Tống anh hùng đã trở thành Lý Tống côn đồ, vô văn hóa. Người ta không thể chống bọn vô văn hóa bằng hành động vô văn hóa, thiểu năng trí tuệ. Nhiều trang mạng ở nước ngoài dùng những từ ngữ như "bưng bô cộng sản" tự làm xấu đi hình ảnh những anh hùng chống cộng trong mắt tôi (ăn nói kiểu gì mà... mất vệ sinh thế?). Vậy thật ra các bạn là ai? Các bạn là những người anh hùng lỡ vận muốn cứu nhân dân đang chìm trong ách thống trị tàn bạo của nhóm lợi ích trong đảng cộng sản hay các bạn chỉ là đám đầu gấu bị mất quyền lợi muốn chiếm lại vị trí ăn trên ngồi trốc trước kia? Các cụ ta dạy: Người thanh ăn nói cũng thanh, các bạn hãy tỏ ra là những người hơn hẳn về văn hóa, có đũng khí, thông minh nhưng chưa gặp vận. Bây giờ là lúc vận nước đang đến, các bạn hãy dùng kinh nghiệm, khả năng của mình để giúp nhân dân vượt qua cơn bĩ cực, tên tuổi các bạn sẽ được người sau mãi mãi nhớ đến, biết ơn.

Tôi nhớ đến đêm 23/4/2012. Đấy là đêm mà nhiều anh em chúng tôi đã đến cánh đồng huyện Văn Giang, Hưng Yên, cùng nhân dân đốt lửa chờ đám giặc nội xâm đến cướp đất. Có người ở ngay trên cánh đồng với nhân dân, có nhóm "phục kích" ở xã bên, nếu giặc nội xâm cướp đất ban đêm thì sẽ chi viện nhân dân bằng đòn đánh úp từ phía sau lưng chúng. Chúng tôi là cựu chiến binh, có người là biệt động mà. Rồi chúng tôi bàn đi bàn lại: Có dùng vũ khí chống cưỡng chế hay không? Vì là các cựu chiến binh, nếu cần vũ khí thì chúng tôi sẽ có vũ khí. Nếu dùng vũ khí nghĩa là có người chết, nghĩa là sẽ có đàn áp khốc liệt, phần thiệt sẽ thuộc về nhân dân. Đến tận lúc trời mờ sáng mới đi đến quyết định: Đấu tranh hợp pháp, bảo toàn sinh mạng cho cả hai bên, bên bị cưỡng chế và bên đi cưỡng chế. Cần phải tận dụng tất cả tiếng nói của nhân dân, của các đảng viên cộng sản còn lương tri để chặn bàn tay tội ác của nhóm lợi ích tại Văn Giang. Để xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh, chúng ta phải học theo cụ Nguyễn Trãi: Dùng đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Đất nước đang trong những năm tháng khó khăn, rất cần sự hỗ trợ từ nhiều phía, và tôi tin các bạn là những người đại nghĩa, chí nhân, sẽ có phương thức hiệu quả giúp nhân dân trong lúc khó khăn này.

Đại diện 5 tôn giáo cùng ra tuyên bố chung về sửa đổi Hiến pháp

Hôm 1/5, đại diện các chức sắc của 5 tôn giáo là Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, Công Giáo, Tin Lành - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ, Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy đã cùng nhau ra Tuyên Bố Chung về việc sửa đổi Hiến pháp 1992.

Nội dung bản Tuyên Bố Chung nhấn mạnh đến 8 điểm:
1- Do ý kiến nguyện vọng của toàn dân Việt Nam lập nên, tức là phải trưng cầu dân ý, có Liên Hiệp Quốc giám sát.
2- Tránh tất cả mọi sự lệ thuộc vào ngoại bang, nhất là Trung Quốc.
3- Tránh mọi điều xâm phạm đến quyền tự do căn bản của người dân Việt Nam như: Tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội…
4- Bầu cử Quốc Hội, tất cả các đảng phái đều được tự do ứng cử.
5- Bầu  cử chính quyền do dân cử, dân bỏ phiếu trực tiếp dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc.
6- Bầu cử theo thể chế Dân Chủ Tự Do.
7- Tam Quyền Phân Lập rõ ràng.
8- Xây dựng một nước Việt Nam thật sự Hòa Bình - Trung Lập - Tự Do - Dân Chủ;  Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.
Những người tham gia ký tên đại diện cho 5 tôn giáo tại Việt Nam gồm có: 
1- Hòa Thượng Thích Không Tánh - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
2- Linh Mục Đinh Hữu Thoại - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
3- Linh Mục Lê Ngọc Thanh - Dòng Chúa Cứu Thế - Sài Gòn.
4- Mục Sư Nguyễn Hoàng Hoa - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
5- Mục Sư Hồ Hữu Hoàng - Giáo Hội Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ.
6- Cụ Lê Quang Liêm - Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy.
7- Chánh Trị Sự Hứa Phi - Cao Đài chính thống - Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh.
Dưới đây là toàn văn bản Tuyên Bố chung:

30/4: Sự thật nằm sau "Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958"

"... Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là "một chiến thắng vinh quang", ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc..."


A - Lời mở đầu 
Bài viết này không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự kiện "bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS", và cũng không muốn bàn tán thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì đã có quá nhiều luật gia và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5 năm qua trong các trang mạng Internet. 
Bài viết xin phép được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa hơn về vấn đề Biển Đông nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung, trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam nam giữ một vai trò chủ chốt vô cùng quan trọng.
B- Dẫn chứng lịch sử VN xung quanh bức công hàm PVĐ 1958
Những dẫn chứng lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra chỉ có hai văn kiện chính thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google một cách dễ dàng, tôi xin phép được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện tối quan trọng, đó là:
1) Văn kiện 1: Bức công hàm do cố thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc liên quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn kiện này chính ông PVĐ đích thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con dấu chính phủ, và do chính tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người đồng nhiệm phía TQ. Sau do công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in ấn nguyên bản và đăng công khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên không hề thấy báo Nhân Dân chụp ảnh và đăng "bản tuyên bố chủ quyền đất đai và vùng hải phận của TQ" mà công hàm PVĐ đã ghi nhận.

2) Văn kiện 2: Bản tuyên bố chủ quyền quần đảo của TQ, giới hạn hải phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ biển của đất liền (TQ), hải phận rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong vùng Biển Đông (trong đó TQ xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa hơn nữa TQ còn xác định rõ ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng căn bản nối từ đất liền TQ đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của VN). Bản tuyên bố này không mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký người gửi, không con dấu, không để tên người nhận và cũng không biết cơ quan truyền thông nào chịu trách nhiệm phát hành.
____________________________
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải

(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958) 

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố: 

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. 

(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc. 

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.

(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc. 

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc 

(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)

* Chú thích: 

Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
_____________________________
Tôi đã kiên nhẫn theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên của người dân SaiGon tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN, đến nay rất nhiều học giả TSGS, luật gia VN hay ngoại quốc, trí thức Việt kiều hải ngoại thay phiên nhau tranh luận, chủ yếu chỉ dựa trên "Bức công hàm PVĐ 1958" để biện hộ cho ông và ra sức tranh cãi pháp lý quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai quần đảo này. Tôi chưa thấy ai đề cập gì đến "Bản tuyên bố chủ quyền và hải phận của TQ 04/09/1958" và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào khác ngoài hai văn kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng "Bản tuyên bố TQ 04/09/1958" có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng nội dung yêu cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên "Bức công hàm PVĐ 1958" mà không nhắc gì đến "Bản tuyên bố TQ 1958" thì theo tôi, quả là một thiếu sót rất lớn hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng công luận nhằm che dấu một sự thật hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc đi đọc lại hai văn bản này hàng chục lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn dắt đến tình thế phức tạp của VN hiện nay trong vùng Biển Đông.
Sau đây là những phân tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại giao quan trọng đó.
1) Sai lầm nghiêm trọng
Bức công hàm PVĐ 1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy:
a) Sơ hở về thời gian: Từ khi nhận được "Bản tuyên bố chủ quyền và hải phận TQ ngày 04/09/1958" cho đến khi PVĐ đặt bút ký "Bức công hàm ngày 14/09/1958" chỉ vỏn vẹn có mười ngày (10) ngắn ngủi, để quyết định một sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền Bắc VN và TQ kết thân nhau như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới tuyến chống đế quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày để bàn bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu không còn biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh? Phải chăng tình hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó quá tồi tệ, lòng dân ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát hàng trăm ngàn người dân vô tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí thức, sau khi hàng triệu nguời di cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn toàn, miền Bắc VN túng quẫn, nạn đói đe doạ trầm trọng ép buộc chính quyền Hà Nội và ĐCS VN phải cúi đầu tuân lệnh ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và nhu yếu phẩm? Thời gian trả lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu "tối hậu thư" thúc ép Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay cho vận mệnh dân tộc VN!
b) Sơ hở về hình thức: Tại sao chính phủ VNDCCH phải sử dụng đến hình thức ngoại giao công khai chính thức rất ư nghiêm túc chỉ để trả lời một “bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc danh không tên tuổi" đáng vứt vào sọt rác? Phải chăng đây là một mánh khoé chính trị, một cạm bẫy do ĐCS TQ giăng ra để ép buộc Hà Nội rơi vào vòng kiềm toả của họ? Tôi nghĩ thầm đến hai giả thuyết, như sau:
- Một là lãnh đạo TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS Hà Nội tỏ vẻ cứng đầu phản đối, hoặc cù cưa không trả lời;
- Hai là lãnh đạo TQ sử dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời công khai chính thức bằng văn bản ngoại giao, để sau này họ nắm trong tay đầy đủ chứng từ trưng ra trước công luận thế giới. Giả thuyết này ngày nay đã thành hiện thực, bản thân thế hệ trẻ sau này đành phải đưa đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị tàu TQ xua đuổi, bị phá phách, bị cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.
c) Sơ hở về nội dung: Bức công hàm PVĐ 1958 không đề cập gì đến "yêu cầu chủ quyền của TQ trên hai quần đảo HS-TS". Đúng thế, đọc kỹ công hàm vắn tắt chúng ta không thể tìm ra được câu chữ nào dính líu đến "chủ quyền TQ trên HS-TS". Tôi thầm nghĩ ông Hồ và toàn thể BCT thời đó hãy còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai chấp nhận chủ quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm trọng hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung hoành trong Biển Đông bao la:
- Một: Công hàm cho phép TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ quyền VNCH (HS-TS, miền Nam). TQ được quyền sử dụng mọi phương tiện quân sự để đánh phá những tàu bè VN đi vào các vùng hải phận này. Ai cũng biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không lớn hơn 1km vuông, rất thấp, không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải phận 12 hải lý (22km) bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế rộng lớn (hơn 1500 km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng tốt. Đó chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau khai thác vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi, thậm chí muốn vào tránh bão cũng không được.
- Hai: Công hàm PVĐ 1958 đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) ấn định bởi những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ biển TQ đến tận các hải đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS). Mỗi đường thẳng căn bản này được TQ đòi hỏi có một hành lang rộng 12 hải lý (22km). Trân trọng mời quý vị độc giả quan sát bản đồ Biển Đông (đính kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao la ấn định bởi những đường thẳng nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ của Trường Sa, nơi xa nhất (khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ lệ của bản đồ). Chấp nhận vùng hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận thế bị bao vây, mọi con đường hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay Đại Hàn về hướng Đông đều bị ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ đại mà TQ hiện nay đang cố gắng nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu đứng thứ 2 thế giới, nhằm bao vây Việt Nam. Trong tương lai VN không còn đất đứng, đành phải chịu thân phận "một vùng tự trị giống như Tây Tạng".
- Ba: Đừng thắc mắc tại sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS đánh chìm tàu hải quân VNCH (miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ tại sao bỏ rơi miền Nam, vì nhân dân Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc VN, mà hãy trách cứ tại sao ĐCS VN đã cúi đầu công nhận chủ quyền TQ trong một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) rộng hơn gấp hai lần lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân tộc VN hiện nay trong Biển Đông chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công pháp quốc tế có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ khi họ chìa "bức công hàm PVĐ 1958" ra làm bằng chứng.
c) Sơ hở về chiến lược: Lý do gì ĐCS VN không cho phép nhật báo Nhân Dân trích dẫn "Bản tuyên bố TQ 04/09/1958" mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ? Đây là một thiếu sót vô cùng hệ trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi rằng "Bản tuyên bố TQ" tìm thấy trên Google là giả tạo ? Có ai dám lục hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem "Bản tuyên bố TQ thật" ra đối chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN: đó là bản chất lừa dối, dấu diếm sự thật, lập lờ đánh lận con đen để lừa phỉnh quần chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn thể Bộ Chính Trị ĐCS VN bị dồn vào thế thụ động phải tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng để trốn tránh trách nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng PVĐ đứng ra chịu tội, sau này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông PVĐ mà quên đi rằng toàn thể lãnh đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai từng sống dưới chế độ vô sản chuyên chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất dịch "Đảng lãnh đạo / Nhà Nước quản lý / Nhân Dân làm chủ". Do đó trách cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai hoàn toàn. Tôi chỉ buồn là vào thời kỳ đó, toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung sức và uy tín rất cao, và đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên tiếng về quyết định trọng đại này? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã bị chủ nghĩa giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân xâm lược Bắc Kinh. 
C- Kết luận:
Thật không dễ chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu lịch sử cận đại VN, khi mà có quá nhiều dấu diếm, tuyên truyền dối trá nhằm che đậy sự thật do ĐCS VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ. Nói theo lời anh Nguyễn Ngọc Giao (báo Diễn Đàn) rằng "ba thế hệ dân tộc VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt hơn 60 năm ròng", sách giáo khoa đã bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một thế hệ "nô dịch" phục vụ cho mưu đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc Việt mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu để kiến tạo nên một đất nước oai hùng chống xâm lược không mỏi mệt. 
Không thể nào nói chuyện "hoà hợp hoà giải dân tộc" khi mà chủ nghĩa giáo điều CS là kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ nhằm vu khống cho cả triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được sử dụng trên báo chí truyền thông "lề đảng", nào là: nguỵ quân, nguỵ quyền, nào là chi'nh phủ bù nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc, Việt gian. Đến bây giờ nếu ai công tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay "kẻ phản quốc, phản động, bù nhìn, tay sai ngoại bang, nguỵ quyền" chính xác là tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái Quả, kẻ nào gây Nghiệp ác thì phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không sai chút nào. 
Bài viết này mới chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau "Bức công hàm PVD 1958". Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc VN suốt nửa thế kỷ dẫn dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân tích ở bài viết sau. Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là "một chiến thắng vinh quang", ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc. 
Rất mong nhận được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương, trong và ngoài nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân tộc Việt Nam.
Thành thật cám ơn,

Cái Đẹp cứu rỗi Đất Nước

Đã hết ngày 30/4. Chúng ta nhìn lại giai đoạn ấy và cả bây giờ để xem thử còn lại gì? “Nửa triệu người vui, còn nửa triệu người đau buồn”. Nửa triệu người vui ấy, chỉ vui trên chiến thắng của mình, chứ nếu nửa triệu người vui chịu suy xét nhìn lại phần thời gian từ sau chiến thắng ấy đến giờ, nửa triệu vui cũng giống như nửa triệu buồn sẽ chẳng vui tí tẹo nào. Thật sự ta còn gì sót lại khi mà dân Việt chưa có một ngày tự do sau cái gọi là "thống nhất"? Bên "chiến thắng" có hiểu thế nào là chiến thắng sau bao đêm trường chiến trận của hai bên mà phe thắng đã gian khổ, thậm chí phải nương nhờ đến những cánh tay bao dung của người mẹ Việt anh hùng và trên tay, trên người, dưới đôi bàn chân luôn là những sản phẩm chiến tranh chế tạo từ Trung cộng, Liên xô?

Để rồi hôm nay khi mà ta nhìn vào hiện tại, những hình ảnh "chiến thắng" mang hình lưỡi liềm cứa nát con tim: 
Đấy là sự chua xót lòng của hình ảnh bà mẹ Nguyễn Thị Nhung và gia đình khi đứa con bé nhỏ của bà bị bắt và gán vào điều 88 “âm mưu lật đổ chính quyền” từ tháng 10 năm ngoái cho đến giờ. 
Chỉ cách đây 3 hôm đi thăm gặp con gái mình là Nguyễn Phương Uyên, bà tan nát thế nào khi thấy con bà tím bầm khắp cả mình, cô bé đã phải giấu nhịn nỗi đau của mình vào sâu trong tim khi mẹ hỏi. Vì sợ mẹ đau lòng khi biết mình bị đánh, rồi mẹ cứ gặng hỏi cho ra thì Phương Uyên mới dám trả lời: "con bị đánh đến ngất xỉu, con đã không biết tại sao mình bị như vậy, họ đã kiếm chuyện với con". 
Ai đã đem cho Uyên những thương tích trên mình đến đắng lòng không bao giờ phai dấu ở người mẹ bé Uyên? Ngoài ai ra mà còn hỏi? Không ai khác cả ngoài công an tỉnh Long An!? Không ai được quyền gây tổn hại đến cả tinh thần lẫn thể xác một người còn đang tạm giam mà chưa đem ra xét xử, huống chi đây là một người yêu nước bé nhỏ, mầm giống tương lai đất nước. Họ đã không biết trân quý lại đi bắt nhốt, hỏi cung, mớm cung, ép cung, vu khống, rồi đến cả cài người vào để gây sự gây thương tích, vả vào mặt mình cũng không biết cách vả lại đi trét thứ mắm muối hôi thối. 
Họ chính là những con người đang núp trong vỏ bọc thép của những cỗ máy xe tăng và giày xéo in hằn những vết nhọn tưởng là cán đích xong lại phang thẳng vào trong cung lòng, tâm hồn của những người oan khiên mà không cần hạn chế thủ đoạn. 
Cùng bắt và cùng tội danh với Nguyễn Phương Uyên là Đinh Nguyên Kha, nhưng đến hôm nay có lẽ không đủ bằng chứng để gán tội, nên đã truy tố Kha thêm tội danh khủng bố, mặc dù ai cũng dư biết cái tí thuốc nổ mà Kha mua từ chợ Kim Biên, Long An về chỉ là để làm pháo bông, pháo nổ đốt linh tinh vào ngày tết cho vui. 
Họ chưa từng buông khí giới với ngay chính đồng loại thân yêu của họ! Có phải không? 
Hòa bình và hòa hợp ở lại trong chúng ta sau ngày 30/ 4 đỏ lửa? Không hề! Chính họ đã không ngừng nghĩ tạo nên bức tường ngăn cách khi gọi những tiếng nói đối lập, là thế lực thù địch, phản động, những suy thoái đạo đức trong tư tưởng, là tự diễn biến hòa bình, là lợi dụng tự do tôn giáo… để tha hồ quy chụp, tặng mũ, tặng bao cao su, hốt tù. Đấy là hòa bình và hòa hợp ư!? 
Nếu chúng ta có một thùng với lỗ thủng, chỉ có cách là ngay lập tức phải vá cái lỗ đó, hoặc là phải vứt bỏ nó đi, nhưng ở đây họ đã không có thiện chí may vá, cũng không vứt bỏ và làm nên cái mới, ngược lại còn đem những tinh hoa con người, những tinh khí đất nước ra tống vào cái lỗ thủng đó cho khuất, cho te tua tàn tật. Họ vẫn cứ 38 năm trời thương tiếc cái thùng thủng ấy, đem vứt của đi thì tiếc và mong giữ nó bằng nùi giẻ đắp vá mang tên điều số 4 và Hòa hợp hòa giải dân tộc!? 
Họ đã thành công khi đã tuyên truyền và làm cho nhiều người tin rằng ngày 30 tháng 4 là một ngày mà họ đã chiến thắng cái ác, đem sự hòa bình, thống nhất cho mọi người. Vậy à? Vậy hỏi cái chiến thắng thật sự của họ nằm ở chỗ nào trên đất nước tan thương ngày hôm nay? 
Có phải "chiến thắng 30 tháng 4" đã được tiếp nối là những trận chiến thắng trên mặt trận cưỡng chế để rồi dân oan với những tháng ngày la lết hết nơi này đến nơi khác chỉ để mong đòi lại cho mình từng mảnh đất máu thịt từ bao đời? Tội nghiệp họ! mảnh đất gieo trồng để kiếm từng miếng ăn trên đó giờ đây theo trời chiều u tối, hình ảnh họ chính là câu trả lời cho niềm tự hào chiến thắng vô bờ của đảng và nhà nước!? 
Có phải tiếp nối là những trận chiến thắng trên mặt trận ngoại giao để Hoàng Sa, Trường Sa phất phới cờ đỏ 4 sao, để Ải Nam Quan lùi về bên kia biên giới, để ngư dân bám bờ thay vì bám biển và để những công dân Việt Nam yêu nước bị đạp mặt, còng tay và bỏ tù!? 
Đúng, đất nước Việt Nam cần nhiều tình yêu thương hơn là sự chiến thắng, cần nhiều tình yêu thương là thù hận nhưng làm thế nào được khi những kẻ "chiến thắng" vẫn 38 năm ròng rã gọi đồng bào của mình là ngụy quân ngụy quyền, vẫn miệng nói hòa hợp hòa giải mà tay tra còng/điều 88 vào tay chân của Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phương Uyên, Nguyên Kha, Việt Khang... 
Làm thế nào được khi ngày 30 tháng 4 đã chưa từng là một trang sử mới, hướng đến tương lai trong tinh thần nhân ái giữa người và người mà thay vào đó những người "chiến thắng" vẫn ngủ quên trên những chiến xe tăng tiến tiến vào Dinh Độc Lập, vẫn nâng chén vinh danh chiến thắng bằng huyền thoại "Điện Biên Phủ trên không", vẫn cụng ly say sưa trong sự láo khoét về những xác người bị chôn sống trong tết Mậu Thân. Và rồi cao hứng cất tiếng can ngăn vô lý, cấm đoán trái phép, bắt bớ những chính kiến. Hòa hợp hòa giải!? 
Điều khiến một vị thuyền trưởng lèo lái một con tàu ngoài đại dương e sợ nhất, thật sự đó không phải là những con sóng lớn vỗ vào mạn thuyền ầm ầm. Điều đáng sợ nhất là những con sóng ngầm mà không hề đoán biết được nó. Hôm nay họ ăn mừng chiến thắng ngày 30/4 vẻ vang bằng những buổi tiệc linh đình, bằng những tràn pháo hoa kéo dài 15 phút, bằng những lễ hội tốn tiền tỉ mà chưa một lần giày vò, ăn năn cho những tội lỗi của mình thì họ vẫn chưa nhận ra được đâu là điều "chiến thắng" thật: chiến thắng lòng người. Chính họ vẫn tiếp tục chặng đường 38 năm tạo ra những cơn sóng ngầm làm tan tác lòng người, những cơn sóng ngầm chắc chắn đánh xì những cái phao giả tạo hòa hợp hòa giải và sẽ nhấn chìm những kẻ đang điều khiển con thuyền. 
Chiến thắng đúng nghĩa là chiến thắng của Thiện chống Ác. Nó phải là hệ quả tất yếu của cái đẹp đứng lên trên mọi xấu xa. Chiến thắng thật sự phải là chiến thắng để giành lấy cái đẹp, trong viên mãn chân lý. Nếu ví chiến thắng là trồng thành công một cây ra hoa trái, thì cái đẹp là hoa trái ấy phải đem ích lợi đến cho người khác. Cái đẹp không phải là một bức tranh hay một nhan sắc đẹp nhưng là một giá trị cảm xúc có thể làm thay đổi tất cả một con người. Tình nghĩa đồng bào, tình yêu thương gia đình, lòng yêu nước... là những “cái đẹp” có sức lay chuyển hơn hẳn những súng đạn, những tù tội, những cấm đoán, những hận thù. Dostoievsky nói thật sâu sắc: "cái đẹp cứu độ thế giới"
Khi ta đã nhận ra cái đẹp và vì nó mà thay đổi thì con thuyền ta lái chỉ có thể đón lấy những con sóng nhỏ tình yêu vỗ vào mạn tàu liên hồi như cùng dìu con tàu về đến bến, chợt nhớ câu thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh thật hay trong bài “Sóng”: 
Ước gì được tan ra 
Thành trăm con sóng nhỏ 
Giữa biển lớn tình yêu 
Để ngàn năm còn vỗ...
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn miệt mài mong chờ chiến thắng thật sự đó. Cuộc chiến thắng của Thiện đối với Ác; của Đẹp đối với Xấu. Chiến thắng đó chỉ có thể xảy ra khi những con người hướng về Chân Thiện Mỹ hòa hợp với nhau và bỏ qua mọi bất đồng về quá khứ. Nó không bao giờ xảy ra trong cái gọi là hòa hợp hòa giải giữa Thiện và Ác, giữa những người chụp lên đầu Phương Uyên, Nguyên Kha cái mũ phản động, cái còng số 88 với những người thật sự muốn tranh đấu cho tự do của Uyên, Kha và của 87 triệu con người Việt Nam.

Sinh viên nghỉ lễ: “Chìm” trong nhậu

(Dân trí) - Không có tiền mua vé xe về quê hay tham gia các hoạt động trong kỳ nghỉ lễ dài nhưng nhiều sinh việc lại chi gấp nhiều lần so với số tiền đó vào bia rượu khi ở lại thành phố dịp nghỉ lễ.

Nghỉ ngày nào nhậu ngày đó
Dân cư tại các xóm trọ sinh viên (SV) ở TPHCM trong đợt lễ dài ngày thưa hơn ngày thường khi nhiều người có những kế hoạch như về quê, đi du lịch, thăm nhà bạn bè… Nhưng không vì ít người mà các khu trọ bớt náo nhiệt mà ngược lại còn rình rang hơn khi SV tổ chức tiệc tùng triền miên trong đợt nghỉ.
Những khu nhà trọ ở đường Phan Văn Trị, Dương Quảng Hàm, Lê Lợi… (Q.Gò Vấp) nơi tập trung đông SV Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, ĐH Văn Lang; đường Hà Huy Giáp (Q.12) ở khu vực trường CĐ Điện lực, CĐ Bách Việt trong đợt nghỉ lễ đã trở thành những “điểm” nhậu đúng nghĩa. Bắt đầu từ 3 - 4 giờ chiều, bạn bè của họ kéo nhau về đây, xe máy dựng kín lối đi và bắt đầu… hò nhau ăn nhậu. Người chuẩn bị mồi, người chuẩn bị bia rượu, nhiều phòng có từng két bia xếp chồng lên nhau đặt trước cửa ra vào.
Cảnh ăn nhậu trước cửa phòng trọ của một nhóm SV Trường CĐ Điện lực TPHCM
Cảnh ăn nhậu trước cửa phòng trọ của một nhóm sinh viên Trường CĐ Điện lực TPHCM
Liên tục mấy ngày nay, tại khu trọ của SV tên Đức (ĐH Công nghiệp TPHCM) ở đường Dương Quảng Hàm lúc nào cũng có vài ba độ nhậu, có những cuộc vui kéo dài từ trưa chiều ngày hôm nay đến tận 1 - 2 giờ sáng hôm sau có cả nam lẫn nữ. Lý do của họ là "không đi đâu ở lại không nhậu thì... biết làm gì".
Không chỉ nhậu trong phòng, nhiều nhóm còn kéo bàn nhậu ra ngay giữa lối hành lang đi lại cho thoải mái. Két bia này đến két bia khác, sau những cuộc “hùn vốn”, tiền trong ví đã cạn, nhiều nhóm từ bia chuyển sang uống rượu để kéo dài cuộc vui. Nhiều SV say “ngoắc cần câu” nằm li bì một chỗ, còn những SV nào còn gà gật thì vẫn còn ráng.
Đức cho biết, những SV không về quê cũng không đi đâu trong dịp lễ thì chủ yếu “liên hoan” bằng nhậu nhẹt. Đêm uống xỉn, ngày hôm sau ngủ li bì đến chiều lại có hội nhậu tiếp. Nhóm bạn của Đức, có nhiều SV than không có nổi 200 - 300 nghìn đồng mua vé xe về quê nhưng họ lại có thể chi gấp nhiều lần số tiền đó cho bia rượu. Cho dù sau bữa nhậu, có thể ngày hôm sau họ không còn một đồng lẻ để mua mì gói ăn qua bữa nhưng không bận tâm vì "vui hôm nay, ngày mai mới tính".
Bà Nguyễn Thị Sáu (tên gọi ở nhà), chủ 10 phòng trọ ở đường Hà Huy Giáp (P. Thạnh Lộc, Q. 12) cho biết, có nhiều phòng SV thuê gần như cuối tuần nào cũng nhậu, gây ầm ĩ, bà phải ra nhắc nhở liên tục. Đợt lễ, nhiều phòng không về quê thì mức độ ăn nhậu của SV còn dày đặc hơn khi họ kéo nhóm bạn này đến nhóm bạn khác đến tụ họp.
Nghỉ lễ không về quê, nhiều SV tụ tập ăn nhậu
Nghỉ lễ không về quê, nhiều SV tụ tập ăn nhậu.

Bà chủ nhà này cho rằng, SV ăn nhậu là điều khó tránh vì các bạn ham vui. Khi chủ nhà nhắc thì họ “dạ vâng” bảo bọn con giải tán ngay nhưng chủ nhà quay đi thì lại nhậu tiếp. Nếu SV nhậu nhẹt mà đuổi đi thì không xuể nên chỉ những cô cậu nào ăn nhậu rồi đánh lộn, gây rối thì bà Sáu mới lấy lại phòng. 
Không chỉ ở phòng trọ mà tại quán nhậu bình dân quanh khu trọ cũng rất đắt khách SV trong đợt nghỉ lễ. Dốc tiền ăn nhậu, không ít cô cậu còn nhậu nợ hoặc vay mượn tiền bạn bè để “dốc” vào bia rượu.
Sinh viên thiếu người quản lý?
Thực trạng SV ăn nhậu có thể thấy rõ ở nhiều khu trọ SV. Không ít trường hợp SV để có tiền nhậu nhẹt sẵn sàng cầm cố máy tính, xe máy hoặc tìm mọi cách “vòi” thêm tiền từ gia đình. Nhiều SV hàng ngày luôn sinh hoạt ăn tiêu trong cảnh “thiếu đói” nhưng khi ăn nhậu thì không hề kém ai.
Trong các ngày cuối tuần hay các cuộc vui như sinh nhật, họp mặt hay đơn thuần muốn vui vui, SV đều có tổ chức nhậu nhẹt tại chỗ ở hoặc ra quán. 
Tụ tập ăn nhậu đã trở thành thói quen của một bộ phận sinh viên
Tụ tập ăn nhậu đã trở thành thói quen của một bộ phận sinh viên
Lý giải về việc SV dễ “bắt tay” các thói hư tật xấu như ăn nhậu, cờ bạc…, SV Vũ Thị Diệu (ĐH Sư phạm TPHCM) cho rằng điều này bắt nguồn từ việc SV thiếu quản lý từ gia đình lẫn nhà trường, khác hẳn với khi học phổ thông. Có những SV ở xa, nhiều năm đi học không về nhà, liên hệ với gia đình chỉ thông qua những cuộc điện thoại hỏi han. Mối quan hệ ở trường ĐH, CĐ với SV cũng rất lỏng lẻo, gần như SV không có một ai quản lý, định hướng mà tự mình thích nghi với sự thay đổi của môi trường sống nên dễ sa ngã.
SV dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống không lành mạnh không chỉ do môi trường sống như sống xa nhà, sống ở các khu trọ, ít tham gia các tổ chức hoạt động đoàn thể mà còn vì SV có nhiều thời gian rảnh rỗi nên tăng nguy cơ tiếp cận lối sống với các lối sống, hành vi tiêu cực. Hơn nữa, các hoạt động xã hội, đoàn thể chưa tiếp cận được với nhiều SV cũng như chưa thật sự thu hút SV tham gia.
ThS Hoàng Xuân Sơn (Trường ĐH Kinh tế TPHCM) cho rằng vai trò của Đoàn Thanh niên đối với việc giáo dục đạo đức SV rất quan trọng nhưng chưa phát huy được hết hiệu quả. Đoàn Thanh niên cần thực hiện tốt hơn nữa các nhiệm vụ như tạo nhiều sân chơi lành mạnh, bổ ích mang mục đích định hướng, giáo dục truyền thống cho SV cũng như việc trách xa các tệ nạn, lối sống thiếu an toàn, lành mạnh.
Bên cạnh đó, các trường ĐH cần phải có những phương pháp giáo dục đạo đức hiệu quả hơn cho SV. Đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa giảng viên và SV, nhà trường và gia đình chặt chẽ hơn nữa để tăng sức “đề kháng” cho SV.

Tuesday, April 30, 2013

Về thăm Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trên đảo Kuku

Từ Letung, chiếc thuyền rẽ sóng lướt đi phăng phăng được gần một giờ đồng hồ thì chị Carina Hoàng chỉ tay vào hòn đảo nhỏ trước mặt “KuKu kia rồi.”

Mọi người nhìn đăm đăm vào cánh rừng. Tiếng nói cười ồn ào đột nhiên lắng xuống.

Mạnh, chàng thanh niên trẻ tuổi nhất đoàn, người cười nhiều nhất và có tiếng cười huyên náo nhất, đứng phắt dậy, ôm chầm lấy Carina, bật khóc không thành tiếng, chỉ thấy đôi vai run lên từng hồi.
 
 Tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đã chết trên quần đảo Anambas,
Nam Dương, được bắt đầu xây ở đảo Kuku cuối năm 2011,
khánh thành vào tháng Tư năm 2013. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Mạnh vượt biên với cha khi mới hơn 10 tuổi. Vài năm sau khi hai cha con định cư ở Úc, mẹ Mạnh một mình vượt biên đến được một đảo nhỏ ở Nam Dương và qua đời trên con thuyền đưa người Việt tị nạn đến đảo Galang. Viên chức người Nam Dương thấy hoàn cảnh đáng thương nên cho thuyền dừng lại và chôn bà ở đảo Kuku. Sau nhiều dự định tháp tùng các phái đoàn đi tìm mộ mẹ không thành, cuối cùng Mạnh sắp toại nguyện. 

Đã 34 năm rồi, nhưng không ngại hành trình gian nan vất vả, và nguy cơ có thể gặp gió bão bất ngờ, phái đoàn 11 người chúng tôi, do chị Carina hướng dẫn, người thì đi tìm mộ, xây mộ cho người thân, người đi tìm quá khứ, người khác muốn đi tìm dấu vết của thuyền nhân Việt Nam ở những hòn đảo nhỏ bé tại Indonesia. 

Dù khởi hành từ Mỹ, Úc hay Âu châu, chúng tôi ai cũng phải đáp ít nhất hai chuyến máy bay và bốn, năm chuyến thuyền mới đến được vùng đảo Jameja, thuộc Anambas region.
 
 Thím Liên cùng chồng là ông Tăng Phú trên đường lên bãi
Kuku tìm mộ thân phụ ông Tăng. Ông bà xúc động
khi nhận ra nơi ở cũ trên đảo Kuku. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Đường đi vất vả mà vui. Nhưng khi đến được đây rồi, thì quang cảnh dọc theo bờ những đảo như Berhala, Tucai, Air Raya, hay Kuku đâu đâu cũng na ná giống nhau khiến không chỉ riêng Mạnh xúc động, vì hình ảnh những ngày thương đau, tưởng đã chìm sâu trong ký ức giờ sống lại, rõ mồn một từng hình ảnh, từng cảm giác.

Thuyền đến gần bờ, đài tưởng niệm có dáng một chiếc thuyền lớn một nửa chìm xuống cát, nửa kia hướng ra biển, ngày càng rõ nét. Đến gần hơn, mọi người đọc được những chữ “VT075” màu đen ngang bụng thuyền. 

Một người chỉ tay: “Đài tưởng niệm kia rồi phải không?”

“Không ngờ ba mươi mấy năm nay giờ lại thấy được hàng chữ này, ngay trên bãi ngày xưa.” Anh Hoàng Long nói nhỏ như chỉ cho mình mình nghe, nét đăm chiêu chiếm lấy khuôn mặt tươi cười cố hữu.

Chị Vân, vợ anh, ngồi gần nhìn anh xót xa, rồi quay ra người bên cạnh phân bua: “Anh ấy mấy ngày nay ban ngày bình tĩnh nhưng đêm đến lục sục đâu có ngủ được.”

Anh Long, chị Carina, và thím Liên và chú Tăng Phú là bốn trong số hơn 370 thuyền nhân đã vượt biên từ Vũng Tàu trên con thuyền mang tên VT075 đến đảo Kuku. Trong đoàn chúng tôi, anh Long và chị Carina gần gũi với cái chết nhất. Anh làm việc trong khu y tế từ cuối tháng Sáu đến trung tuần tháng Chín tại lều y tế tại đảo Kuku cùng với bác sĩ Trần Duy Tân, và hàng ngày chứng kiến không biết bao nhiêu cái chết.

Anh kể: “Ban ngày tôi làm y tá, ban đêm Carina và một người nữa và tôi có bổn phận canh lều bệnh nhân. Chúng tôi lúc đó ở đây trong tình trạng không thực phẩm, không thuốc men trong khoảng thời gian ba tháng, trước khi Cao Ủy Tị Nạn tìm đến. Hàng ngày nhìn bệnh nhân chúng tôi có thể đoán được người nào đêm nay không qua khỏi, nhưng bó tay không thể làm gì giúp cho họ được.”

Anh Long may mắn không có thân nhân bỏ mình trên đảo này, nhưng đưa vợ đi để tìm về quá khứ, một quá khứ anh không biết mình đã quên hay vẫn còn bị ám ảnh.

Quá khứ bây giờ hiển hiện trước mắt.

Bên này là biển mênh mông ngút ngàn, bên kia là rừng núi chập chùng, cỏ cao vượt mặt. Đây là bãi tắm, kia là nhà thờ, kia là nghĩa địa, đó là từng hàng chòi được dựng lên làm nơi trú ngụ, trước mặt là văn phòng Cao Ủy Tị Nạn, và xa xa trên cao kia nữa cũng là nghĩa địa. Nghĩa địa khắp nơi.

Chỉ khác là bây giờ ngay trên bãi xưa, một tượng đài sừng sững đánh dấu giai đoạn hãi hùng của đoàn người tị nạn, của nơi đói khát, bệnh tật đã cướp đi mạng sống của không biết bao người. 

Thuyền cập bến!
Mọi người kéo nhau xuống bãi cát, hướng về phía đài tưởng niệm mà đi dưới nắng chói chang.

Đi một quãng, thím Liên níu lấy tay chồng, hốt hoảng: “Hồi đó mình ở chỗ này nè!”
Chồng bà, chú Tăng Phú thẫn thờ. “Biết có tìm thấy mộ ổng không đây.”
 
 Anh Long Hoàng, một thuyền nhân đến Nam Dương từ thuyền VT075 nén xúc động
khi đứng bên bãi Kuku, nơi anh trú ngụ năm 1979 và chứng kiến
biết bao nạn nhân qua đời vì thiếu thực phẩm và thuốc men. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

“Hồi đó” là khoảng trung tuần tháng Sáu năm 1979. Đoàn người vượt biên trên con thuyền mang tên VT075, sau khi bị Malaysia từ khước được đưa vào LeTung, Air Raya, rồi trôi dạt đến đây. Thân phụ của chú Tăng Phú bị bệnh chết sau đó một tháng. Chú Tăng cho biết chỉ nhớ mang máng đã mai táng cha ở mảnh đất gần con suối nhỏ, nhờ người chất đầy đá trên mộ và khắc tên cha vào một tấm bia, hứa với lòng một ngày nào sẽ về xây mộ cho cha, làm tròn chữ hiếu.

Năm 2009, phái đoàn đi tảo mộ đảo Kuku do chị Carina Hoàng hướng dẫn tìm thấy ngôi mộ của thân phụ ông, chụp hình rồi bỏ lên website. Tình cờ gặp được người quen cho biết website này, chú nhờ con gái vào xem, và đã khóc ròng khi thấy tấm bia do chính tay mình khắc. Chờ thêm hai năm nữa hai vợ chồng mới có điều kiện tháp tùng đoàn người đi thăm Kuku.

Đến gần bờ, thấy tôi tần ngần nhìn những miếng đá phủ đầy rêu lên gần đến lùm cỏ dại, người thông dịch viên đi cùng đoàn bước đến gần. 

“Tại sao lại có đá ở đây?” Tôi hỏi.

“No, no rock, Vietnam boat.” Người thông dịch nói.

Ồ đúng rồi, không phải đá mà là gỗ, mà là thuyền, xác thuyền. 

Nhìn kỹ hơn, thấy dọc theo bãi biển gần bờ rải rác bao xác thuyền, giờ chỉ còn trơ lại cái khung như bộ xương lấp lánh dưới làn nước trong xanh.

Và bước lên bờ, chỉ leo vài đoạn núi thôi, mọi người biết sẽ thấy rải rác nhiều nấm mồ, trong đó có mộ của thân mẫu Mạnh và của thân phụ chú Tăng, và biết còn của ai nữa. Đã bao nhiêu người Việt Nam đi tìm tự do bỏ mình ở đây, 500 hay 2,000? Cho đến giờ, không ai có con số chính xác. 

Đứng chờ chúng tôi tại trước tượng đài là đại diện các viên chức địa phương của quần đảo Jemajah. Sau một bài diễn văn ngắn của người bản xứ, Carina thay mặt cho phía chúng tôi cắt băng khánh thành tượng đài.

“Chúng tôi dựng tượng đài này để đánh dấu một giai đoạn lịch sử, để tưởng niệm những thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình trên Anambas region.”

Đại diện của quần đảo Jemajah cho biết sở dĩ hàng chữ VT075 được vinh hạnh viết lên đài tưởng niệm là vì Carina, người tị nạn đầu tiên trở về quần đảo Nam Dương tìm mộ người thân, là người đến Nam Dương trên chiếc thuyền mang tên VT075.

Với việc xây dựng tượng đài, bảo vệ một di tích lịch sử, chính quyền Anambas cho biết cũng mong nhiều người Việt Nam ở khắp nơi sẽ về đây, tìm mộ người thân, thăm lại nơi đã cưu mang họ trên đường đi tìm quê hương thứ hai.

Lịch sử không phải chỉ được ghi lại ở đài kỷ niệm mà còn khắc ghi trong lòng nhiều người, cả người Việt Nam lẫn người bản xứ.
 
 Đoàn người đến thăm đảo Kuku chuẩn bị đốt nhang trước đài tưởng niệm. (Hình: Uly/Indonesia)

Trong một ngày đi sâu với một thông dịch viên vào thị trấn Letung, chúng tôi gặp nhiều người dân Indonesia cho biết còn nhớ rất rõ thời gian hàng ngàn người tị nạn Việt Nam ùa vào thị trấn nhỏ bé của họ.

Ông Anwal, một dân cư Letung cho biết, vào năm 1979, ông mới 12 tuổi, và nhớ đột nhiên sáng nào đi học cũng thấy người Việt Nam khắp nơi, trên bãi cỏ, dưới gầm nhà sàn, ngoài bờ suối. Cậu bé Anwal lúc đó thật xúc động khi thấy những người tị nạn đói rách, thẫn thờ. Họ xây nhà bằng tất cả những vật liệu nào có thể kiếm được, và ăn bất cứ thức ăn gì có thể tìm được. Ông nhớ những chiếc xe cứu thương chở bệnh nhân và chở xác người tị nạn lên núi.

Awal khoe còn biết hát quốc ca Việt Nam nữa.
“Quốc ca Việt Nam?” Mọi người hỏi.

Ừ quốc ca Việt Nam. Ông nói, rồi bập bẹ cất tiếng hát, rất đúng nốt, đúng nhịp dù lời bị trọ trẹ: “Việt Nam Việt Nam nghe tự vào đời, Việt Nam hai câu nói bên vành nôi, Việt Nam nước tôi...”

Không phải quốc ca Việt Nam đâu. Nhưng điều ấy không quan trọng.

Tiếng hát được cất lên từ khuôn mặt ngoại quốc xa lạ như luồng điện ở đâu được truyền vào người.

Làm sao ông học được bài hát này? Đã 34 năm rồi sao ông còn nhớ? Cố ngăn nước mắt, tôi dồn dập những câu hỏi.

Anwal bảo làm sao không nhớ được khi trong nhiều tháng trời, mỗi sáng đi học ông đều thấy từng đoàn người Việt Nam ở mọi ngõ ngách của thị trấn nhỏ bé, đồng loạt đứng lên, mặt buồn rầu rầu, mắt đăm đăm nhìn về hướng biển, và cùng nhau hát bài hát đó.

Mai này chúng tôi sẽ lên đường, trả lại sự bình lặng cho những người dân Nam Dương hiền lành mộc mạc và tốt bụng, cho nơi đầy dẫy dấu tích đoàn người Việt tị nạn. 

Nắng sẽ vẫn chói chang trên bãi Kuku khi thuyền chúng tôi rời bến, nhưng lòng người ở, kẻ đi, sẽ rất khác.

Cai trị VN dễ thật, nếu không muốn dân giàu, nước mạnh

Đang cho ngoại quốc mua nhà, cấp sổ đỏ. Tuy có điều kiện như phải ở VN trong thời gian nào đó, v.v... nhưng các việc này dễ "du di", làm giả.

Dân Tàu mà được cho qua mua nhà thì họ sẽ mua hết xứ, do quan chức bên đó còn giàu hơn bên VN, họ đang muốn tẩu tán tài sản. Họ biết qua VN thì có thức ăn hợp khẩu vị, gái VN thơm, đẹp không kém gái Bắc Tàu (loại chân dài gần biên giới Nga), lại rẻ hơn nhiều.

Còn việc trái phiếu thì hình như Đà nẳng, Hải phòng đều đã làm rồi. Sắp tới khắp 64 tỉnh thành đều sẽ có Ponzi schemes nở rộ, tranh nhau in, bán, như vé số.

Nghĩ lại cai trị VN dễ thật, nếu không muốn dân giàu, nước mạnh, mà chỉ muốn dân nghèo, nước bạc nhược, rồi thừa cơ gom tiền bỏ túi.

Đa số dân VN kém trí tuệ, không biết suy nghĩ trừu tượng, không biết nhìn xa, hay cả tin, v.v... đầy đủ nhược chất để làm người nhược trí.

Nghệ An: Cán bộ ăn chặn tiền cứu trợ của người tàn tật để chia cho người nhà

"Cháu Thái Thị Thắm ở xóm Kim Liên bị tâm thần, hằng ngày gia đình phải nhốt vào cũi hoặc lấy dây xích lại, bà nội cháu 90 tuổi ngã què chân nằm một chỗ, kinh tế gia đình rất khó khăn. Thế mà số tiền ít ỏi cứu trợ hằng tháng của cháu xã cũng giữ".

UBND xã Thanh Chi, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An: Ăn chặn tiền trợ cấp cứu trợ người tàn tật, cô đơn

Sau khi Thường vụ Huyện ủy Thanh Chương ra thông báo miễn chức Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND đối với ông Phùng Văn Điền; cách chức Thường vụ Đảng ủy xã Thanh Chi ông Nguyễn Duy Ngọc; miễn nhiệm chức Phó Chủ tịch UBND xã Thanh Chi ông Lê Văn Thủy, UBND huyện Thanh Chương ra quyết định cách chức Chủ tịch UBND xã Thanh Chi ông Nguyễn Duy Ngọc, nhân dân tiếp tục có đơn khiếu kiện những vụ việc “quan xã” chưa được phanh phui. UBND huyện Thanh Chương có quyết định số 665 thành lập đoàn thanh tra. Ngày 27/3 đến ngày 1/4/2013 đoàn làm việc với xã Thanh Chi tiếp tục phát hiện sai phạm của cán bộ UBND xã...
Ngày 30/4/2005 UBND huyện Thanh Chương có quyết định số 141/QĐ.UB về việc hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội thường xuyên cho 28 người ở xã Thanh Chi. Trong đó 25 người tàn tật, 3 người cô đơn không nơi nương tựa, kinh tế vô cùng khó khăn. Mức hưởng từ ngày 1/1 đến 31/12/2004 là 45.000 đồng/người/tháng. Từ ngày 1/1/2005 được hưởng mức 65.000 đồng/người/tháng. 
Nhưng trong năm 2004, UBND xã Thanh Chi nhận 15.120.000 đồng về không trả cho ai. Có 6 người từ năm 2004 đến hết năm 2006 UBND xã tự chuyển chế độ cho người khác không có tên trong quyết định số 141/QĐ.UB. 
Những người không có tên trong quyết định mà được hưởng chế độ cứu trợ có ông Phùng Văn Ngôn ở xóm 9A, em trai Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã; bà Nguyễn Thị Quyển xóm 1, bà Nguyễn Thị Hanh xóm 3, bà Lê Thị Hai xóm 8B, bà Nguyễn Thị Nhị xóm 4A, bà Nguyễn Thị Đại xóm 1. 
Sáu người có tên trong quyết định xã không cho nhận tiền có bà Đậu Thị Hợi xóm Kim Liên; ông Phùng Văn Đệ xóm 9A; bà Nguyễn Thị Tám xóm Kim Liên; ông Trần Văn Minh xóm 8B; ông Trần Đức Sáng xóm 8A; ông Lê Văn Hà xóm 10.
Cháu Thái Thị Thắm bị tâm thần, gia đình phải xích lại khỏi quậy phá, bị UBND xã Thanh Chi ăn chặn tiền trợ cấp.
Trước khi đoàn thanh tra của huyện mời 28 người tàn tật, cô đơn có tên trong quyết định lên hỏi ý kiến thì ông Phan Văn Bá, kế toán ngân sách xã bí mật đến trả tiền cho một số người. 
Bà Đậu Thị Thái, cháu Thái Thị Thắm cùng ở xóm Kim Liên năm 2008 đều được hưởng mỗi tháng 240.000 đồng X 12 tháng = 2.880.000 đồng, nhưng chỉ được nhận 1.440.000 đồng. 
Thâm nhập thực tế chúng tôi thấy những người tàn tật, cô đơn phần lớn tuổi cao như bà Lê Thị Nhơn ở xóm Ngọc Tỉnh bị tàn tật; cụ Nguyễn Thị Tâm, 85 tuổi ở xóm Văn Phú cô đơn không nơi nương tựa, cuộc sống vô cùng khó khăn, số tiền cứu trợ không đáng là bao mà bị ăn chặn. 
Cháu Thái Thị Thắm ở xóm Kim Liên bị tâm thần, hằng ngày gia đình phải nhốt vào cũi hoặc lấy dây xích lại, bà nội cháu 90 tuổi ngã què chân nằm một chỗ, kinh tế gia đình rất khó khăn. Thế mà số tiền ít ỏi cứu trợ hằng tháng của cháu xã cũng giữ. 
Bà Lê Thị Tám, 54 tuổi, ở xóm Kim Liên tàn tật bẩm sinh, không lao động được, mấy năm nay mắt suy giảm thị lực nghiêm trọng. Bà cho biết: 

May nhờ các cụ Hội NCT đấu tranh mạnh tôi mới được hưởng trợ cấp cứu trợ từ đầu năm 2004, mãi đầu năm 2007 tôi mới được nhận tiền. 

Bất bình với UBND xã ăn chặn tiền của người nghèo, ngày 1/4/2013 tôi lên gặp ông Phan Văn Bá, kế toán ngân sách xã, người trực tiếp chi trả tiền cứu trợ hỏi xin truy lĩnh số tiền trong ba năm xã chưa phát. Ông Bá trả lời tôi không có tên trong quyết định. Tôi bảo, tôi sẽ khiếu nại trên để đòi quyền lợi. Ông Bá thách tôi đi mà kiện. 

Tôi đưa quyết định số 141/QĐ.UB ngày 30/4/2005 của UBND huyện Thanh Chương cho ông xem, thấy tôi đứng thứ hai trong danh sách, đành thú nhận: Tiền trợ cấp của bà từ đầu năm 2004 đến hết năm 2006 ông Phùng Văn Điền, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã và ông Phạm Đức Tường (Chủ tịch UBND xã Thanh Chi từ năm 2000 - 2005) thống nhất chuyển cho ông Phùng Văn Ngôn hưởng
Bà Tám quyết định gửi đơn lên thanh tra huyện đề nghị UBND huyện Thanh Chương làm rõ vụ việc.
Những cán bộ, đảng viên tâm huyết ở xã Thanh Chi cho biết: Vừa rồi Huyện ủy, UBND huyện Thanh Chương ra thông báo, quyết định xử lí kỉ luật đối với các cán bộ vi phạm ở xã Thanh Chi, nhưng dư luận chưa đồng tình. Bởi UBND huyện Thanh Chương mới kiểm tra từ đầu năm 2010 đến hết năm 2012 mà đã sai phạm như vậy. Nếu kiểm tra từ năm 2005 đến 2009 thì UBND xã Thanh Chi sai phạm còn nhiều hơn. Tình hình xã Thanh Chi vô cùng phức tạp. Để sớm ổn định ở địa phương, huyện phải kỉ luật nghiêm khắc những cán bộ sai phạm, không còn tình trạng trên bao che cho dưới, như thế mới yên dân.

Tố cáo những hành vi hành hạ, trả thù của CA đối với Blogger Điếu Cày

Ngày 29/4/2013 vừa qua, gia đình Blogger Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải đã chính thức gửi đơn khiếu nại tố cáo những hành vi hành hạ, trả thù một cách có hệ thống của cán bộ trại giam K3, Xuyên Mộc (Bà Rịa, Vũng Tàu) đối với thân nhân.

Nội dung đơn khiếu nại do chị Dương Thị Tân (vợ cũ blogger Điếu Cày) cùng con Nguyễn Trí Dũng tố cáo "Về những việc làm trái pháp luật, lợi dụng chức vụ quyền hạn xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tù nhân và thân nhân đi thăm nuôi của các cán bộ quản lý phân trại K3 trại T345, Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu".
Những cán bộ công an sai phạm bị nêu đích danh trong đơn tố cáo là Thiếu tá Nguyễn Ngọc Hữu, Đại úy Phạm Văn Huyên, Thượng sỹ Nguyễn Văn Quân. Đây đều là những viên cán bộ đang công tác tại trại giam K3, Xuyên Mộc
Hiện nay gia đình vẫn chưa biết chính xác Blogger Điếu Cày đang bị giam giữ ở đâu. Nhiều người dự đoán có thể Điếu Cày đã bị đưa về 'trại 6', một trại giam khét tiếng tàn độc thuộc huyện miền núi Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Được biết, vài ngày sắp tới, chị Dương Thị Tân sẽ phải lặn lội từ Sài Gòn ra Nghệ An để hỏi thăm tin tức về Blogger Điếu Cày.









Monday, April 29, 2013

Myanmar thành đối thủ mới của gạo xuất khẩu Việt Nam

Gạo Việt Nam đang phải bán giá thấp nhưng ít người mua vì các nhà nhập khẩu quay sang mua gạo Myanmar với giá rẻ hơn.

Theo ông Trương Thanh Phong, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), cách đây một năm, Ấn Độ và Pakistan là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ngành xuất khẩu gạo Việt Nam. Giờ đây, Myanmar mới là đối thủ đáng lo ngại nhất do sự tăng trưởng mạnh về sản lượng xuất khẩu và mức giá thấp nhất thế giới.

Nguy cơ mất thị trường, rớt giá


Ông Phong cho hay mới đây Myanmar đã ký một biên bản ghi nhớ cung cấp 500 nghìn tấn gạo cho Indonesia khi cần thiết và nếu có thặng dư gạo ở Myanmar. Trong khi đầu năm 2013, Indonesia tuyên bố sẽ tự cung tự cấp lương thực, giảm lượng gạo nhập khẩu theo dạng hợp đồng tập trung được thỏa thuận giữa chính phủ Indonesia và Việt Nam. Có thông tin Malaysia, Philippines cũng đang đàm phán để mua gạo từ Myanmar vì giá rẻ.

Không chỉ lấy đi những khách hàng quen của Việt Nam, Myanmar còn lấn sang nhiều thị trường lớn. Ông Phong cho biết thị trường xuất khẩu gạo chủ lực từ năm 2012 đến nay của Việt Nam là Trung Quốc, chiếm tới 1/3 lượng gạo xuất khẩu. Nhưng với sức mạnh giá rẻ, Myanmar đang làm thị phần gạo xuất khẩu của Việt Nam, Pakistan, Thái Lan tại Trung Quốc hẹp dần.

Hiện giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Myanmar là 300 USD/tấn, gạo 25% tấm hơn 200 USD/tấn, thấp hơn nhiều so với gạo cùng loại của Việt Nam. Từ đầu năm đến nay, Myanmar đã bán qua đường tiểu ngạch hơn 630 nghìn tấn gạo cho Trung Quốc với kiểu giao tiền đưa hàng ngay. Điều này làm việc xuất khẩu gạo của Việt Nam sang đây suy giảm, số hợp đồng xuất khẩu bị hủy tương ứng vài trăm nghìn tấn gạo. Trung Quốc đang dựa vào giá của Myanmar để chờ giá gạo Việt Nam xuống thấp hơn để mua vào. Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc nhân cơ hội này ép giá và doanh nghiệp Việt Nam buộc phải bán giá thấp cho họ vì nhu cầu từ các thị trường khác rất ít.

Theo ông Lâm Anh Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Lương thực Thịnh Phát, giá xuất khẩu gạo Việt Nam đang tuột dốc với 375 USD/tấn cho gạo 5% tấm, giảm 35 USD/tấn so với mức giá sàn hiệp hội đưa ra hồi tháng 2-2013. Giá thực tế mua vào hiện đã là 385 USD/tấn.

Gạo cao cấp cũng bị giảm


Cũng nhờ giá rẻ, gạo Myanmar đang tiếp tục xâm nhập vào những thị trường xuất khẩu gạo cao cấp.

Ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng Thư ký VFA, cho biết trong năm 2013, Myanmar đã thắng thầu xuất khẩu gạo sang Nhật Bản và dự kiến xuất đợt đầu tiên 5.000 tấn chất lượng cao vào tháng 5/2013 với giá 490 USD/tấn. Đây là lần đầu tiên Myanmar xuất khẩu gạo sang Nhật Bản và được biết nước này đang đàm phán với cả Hàn Quốc.

GS Võ Tòng Xuân cho hay vốn là nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới nên khi kinh tế mở cửa trở lại, Myanmar đủ khả năng nâng cao chất lượng để sản xuất gạo cấp cao. Minh chứng cụ thể là Myanmar đang mở rộng thị trường xuất khẩu gạo, nhất là Liên minh châu Âu (EU), bên cạnh đó là kế hoạch tới Kuwait, các nước Trung Đông và châu Phi.

Mới đây, Hiệp hội Các nhà xay xát gạo của Myanmar cho biết nước này sẽ xuất khẩu gạo đồ lần đầu sang Nga với khối lượng 250 tấn. Các nhà máy chế biến gạo đồ xuất khẩu đã được xây dựng tại nhiều thị trấn ở vùng Ayeyarwady và thủ đô Yangoon. Cũng theo hiệp hội này, năm nay Myanmar sẽ xuất gạo sang một số nước nữa như Úc, Ukraine, Bangladesh, Nam Phi, Ấn Độ, Singapore và Malaysia.

Việt Nam cần làm gì?

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), Myanmar đã đề ra kế hoạch xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo trong năm 2013 và đến nay đã vượt 600 tấn. Sản lượng gạo Myanmar năm 2014 dự báo đạt khoảng 12,7 triệu tấn, tăng 15% so với năm 2013. Lúc này, Myanmar sẽ giảm giá bán thấp hơn nữa, ví dụ gạo 5% tấm xuống dưới mức 300 USD/tấn thì xuất khẩu gạo Việt Nam khó tồn tại. Cách duy nhất là giảm giá xuất khẩu nếu không sẽ không có thị trường nào mua, ông Tuấn, Công ty Lương thực Thịnh Phát nhận định.

Ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng Thư ký VFA, cũng cho rằng việc doanh nghiệp giảm giá bán là hợp lý để đảm bảo tiêu thụ lúa vừa thu hoạch vụ đông xuân trước khi đón lượng gạo tiếp theo từ vụ thu hoạch hè thu, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu ở các thị trường để giữ giá. Hiệp hội sẽ nắm lại quyền đàm phán ký hợp đồng tập trung vào thị trường truyền thống để tăng hợp đồng xuất khẩu. Xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn tăng nhưng doanh nghiệp cần chú ý giao dịch, nhận tiền rồi mới giao hàng, tránh nguy cơ hủy hợp đồng, ép giá.

Tuy nhiên, GS Xuân cho rằng nếu nhìn giá Myanmar để giảm theo thì không chỉ mất lợi nhuận mà mất luôn vị thế của gạo Việt Nam. Gạo Myanmar giá rẻ nhưng chất lượng lẫn sản lượng rất thấp không thể so với gạo Việt Nam. Các nhà nhập khẩu chỉ lấy cớ này để ép giảm giá. Việc doanh nghiệp có lỗ hay không chưa rõ nhưng giá lúa gạo trong nước đang giảm, nông dân đang lỗ. Vì vậy doanh nghiệp đẩy giá lên, không phải sợ bị ép giá. Nhà nhập khẩu có mua gạo của Myanmar cũng chỉ một lượng nhỏ rồi hết (hahahaha. Keep masturbating...)

Về lâu dài, khi sức mạnh Myanmar càng lớn, chuyên gia Nguyễn Đình Bích cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược phát triển các loại gạo đặc sản thế mạnh để tạo phân khúc thị trường có lợi cho mình. Chất lượng gạo phải là yếu tố chính để mở rộng xuất khẩu vào thị trường mới và thị trường khó tính.

Thursday, April 25, 2013

UBND Huyện Trảng Bom "nghiêm khắc" phê bình Giáo xứ Trảng Bom góp ý Hiến pháp không theo ý đảng

Chuyện diễu cười không nổi chỉ xảy ra tại đất nước có tự do gấp vạn lần bọn tư bản . Ông chủ tịch ủy ban soạn thảo Hiến pháp kêu gọi trên TV, báo chí, khuyến khích người dân góp ý cho bản dự thảo sửa đổi hiến pháp, KHÔNG CÓ VÙNG CẤM. Còn ông phó chủ tịch huyện thì lại ra văn bản yêu cầu Cha xứ và ban hành giáo không được phép phổ biến Thư góp ý của Hội đồng Giám mục Việt nam. Vậy ra ở VN chức phó huyện to hơn chức chủ tịch ủy ban soạn thảo Hiến pháp chăng? Có diễn tuồng "dân chủ" cũng phải diễn khéo một tí chứ, ai lại lộ liễu thô bỉ như vậy!

Trong thời gian qua, 28 giáo xứ Công giáo của huyện Trảng Bom đã tổ chức góp ý dự thảo Hiến pháp bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó là việc phổ biến Góp ý Dự thảo Hiến pháp của Hội đồng Giám mục Việt Nam. UBND Huyện đã gửi văn thư đến Linh mục Chánh xứ, "nghiêm khắc phê bình", yêu cầu "thu hồi ngay và không được tái diễn, tuyên truyền, tán phát..."

Wednesday, April 24, 2013

Vietcongs will have to do what they have to do: Replacing their currency

Nay tình trạng KT VN đã đi đến mức độ cực kỳ tuyệt vọng, MỌI phương cách cứu KT đều ĐÃ được đưa ra, thất bại 100%.

Thử hỏi, có cty nào được cứu nhờ việc mượn tiền lời giá rẻ, 4%, do CP trợ cấp vài năm trước hay không.

Mà nay VC đòi cho người ta vay mượn tiền mua BĐS giá rẻ.

Cho dù tiền lời 0%, người ta cũng không trả vốn nổi.

Nền KT ĐÃ sa sút quá mức có thể cứu nổi do giảm thuế doanh nghiệp vài %, trợ cấp tiền lời vài % trong BĐS.

Và đó thì phải CÁM ƠN Cục Thống kê đã liên tục láo khoét suốt nhiều năm qua.

Nếu từ đầu Cục này thành thật 1 chút, ông Dũng có sự trung thực trung bình, và THÚ NHẬN rằng: "Tình hình KT cực kỳ khó khăn, thất nghiệp 25%, thiểu nghiệp 70%, GDP giảm 20%" từ 2008, thì mọi việc đã CÓ THỂ được giải quyết.

NHƯNG Cục này và ông Dũng luôn miệng, liên tục, láo khoét, cho đến HÔM NAY vẫn láo khoét, rằng GDP tăng, thất nghiệp 2,5%, KT cuối năm sẽ khởi sắc, v.v... cho nên con bệnh KT VC một khi phát bệnh mặc kệ cho bệnh nhân có công nhận mình có bệnh hay không, thì khi đó không còn ai có thể cứu nổi.

------------------

HÔM NAY, nền KT VC đã đi tới tình trạng như vậy rồi. Không ai, không gì, có thể cứu.

TQ bỏ vào 150 tỉ USD cũng không cứu nổi, do hàng TRIỆU thợ tay nghề cao đã bị thất nghiệp, nay muốn dạy lại họ, tuyển chọn, cũng phải mất vài chục năm.

Nhiều ngành nghề 1 khi bị dẹp thì vĩnh viễn thất truyền.

Không đơn giản là "100 ngàn cty dẹp, thì nếu cho ra mới 100 ngàn cty khác, thì huề vốn".

100 ngày cty dẹp, đem theo biết bao nhiêu cái logistics, mối mua, bán, hàng quen biết, mà có khi phải mất mấy chục năm mới dựng lên uy tín.

Cty làm hàng xe Honda của bên vợ tôi tại Chợ lớn lúc trước mua bán bạc chục tỉ đồng/tháng, không cần giấy tờ chính thức, có khi không có cả tờ giấy nào. Chỉ là quen biết mấy chục năm, 1 lời nói đáng giá bạc chục tỉ.

Nay thì sao, đã dẹp, cho dù cty mới khác cùng làm hàng, thì mua bán rất khó khăn do phải dùng VND (trước kia đa số thanh toán bằng vàng, đô la cho nhanh gọn, không sợ mất giá trị), cái gì cũng phải chứng từ do "không ai tin ai, vì không ai biết ai". Chỉ việc cái gì cũng qua văn bản mà thôi là đủ khó cho cty nhỏ sống sót.

Thợ cũ rành nghề nay chạy xe ôm, xuống quê làm ruộng. Cho dù gọi lại, thì cả năm sao chưa lấy lại được tay nghề từng có.

Và họ "lụt nghề", thì sau này làm sao đào tạo ra lớp thợ trẻ khác?

------------------

Cho dù IMF có cho VN mượn 150 tỉ đô, VN bán đất cho TQ lấy số tiền này, thì cũng phải mất 20 năm mới dựng lại cùng số cty ĐÃ dẹp, cùng số nhân tài, thợ lành nghề, của các năm 2005-2007.

Và trong 20 năm đó, VN làm sao ra tiền trả IMF, còn bán mấy tỉnh cho TQ thì xài hết sạch trong 1 tháng, do phải cưu mang nợ xấu, sau đó cũng chẳng cty nào được thành lập cho tốt.

Hiện nay, với tổng dư nợ theo con số chính thức là 3 triệu tỉ đồng, thì không làm sao nền KT VC làm ra LỜI hơn 1000 tỉ đồng/ngày chỉ để trả TIỀN LỜI số nợ khổng lồ này.

Và để giảm bớt, bỏ nợ xấu, thì chỉ còn MỘT cách, đó là ĐỔI TIỀN.

Và KHÔNG ĐƠN GIẢN lấy tiền cũ đổi tiền mới, như vậy không ích gì.

Mà là BỎ BỚT tiền đã in ra, ví dụ đã in ra 4 triệu tỉ, nay chỉ cho 1 triệu tỉ được phép đổi, phần còn lại bỏ đi.

Và số bỏ đi là phần lớn trong số 3 triệu tỉ đồng dư nợ.

Như vậy, sau khi ĐỔI TIỀN, QUỴT NỢ, số nợ còn lại rất nhỏ, có thể giải quyết, NHNN giúp con nợ trả rồi quốc hữu hóa tài sản con nợ, hệ QUỐC DOANH do đó sẽ PHÌNH TO RA KINH KHỦNG, CHIẾM GẦN HẾT 100% NỀN KINH TẾ.

------------------

Thế là, mọi việc trở lại thời 1975-1987.

Không còn cách nào khác, dân đói khổ thì tính sau, dân đi vượt biên CÀNG TỐT - VC sẽ nghĩ như vậy.

Thêm 4 triệu VK thì hàng năm sẽ thêm 10 tỉ USD, khi đó 8 triệu VK nuôi 80 triệu người VN, khỏe chán, thay vì nay 3,5 triệu nuôi 92 triệu.

Các tuần, tháng tới đây sẽ quan trọng. Ngoại quốc có thể lại đánh SỤT TÍN DỤNG quốc gia VN. Ngoại quốc sẽ rút vốn ra khỏi VN, gây CAPITAL FLIGHT làm thất thoát ngoại tệ, mất việc làm.

Tình trạng sụp đổ nền KT nay rất cận kề, chỉ cần tin xấu bị rò rỉ ra mà thôi.