Thursday, September 6, 2012

Những sự thật không thể chối bỏ - Người chồng, người cha tồi tệ

Thật ra, trước tôi đã có nhiều tác giả viết về đề tài vợ con của ông Hồ, hay như DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nói rất rõ. Tuy nhiên tôi viết bài này không nhằm chỉ trích việc ông Hồ có nhiều vợ con, vì với tôi chuyện có nhiều vợ con không phải là tội ác, mà cái chính là ông ta cư xử thế nào với vợ con ông ta và tại sao ông ta lại phải lừa dối dân tộc điều này. Xin được trình bày cùng bạn đọc.
A. Bác đâu có “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”:
Theo tôi đối với ông Hồ: Vợ, người tình chỉ để “giải khuây”- con chỉ là “kết quả không mong đợi”. Sở dĩ tôi phải nói vậy vì nếu là một người chồng, người cha tốt thì dù thế nào họ cũng phải thừa nhận với mọi người và chăm sóc vợ con đàng hoàng. Đằng này ông Hồ không hề thừa nhận mình có vợ, con và đối xử với họ tàn tệ. Xưa có câu “Hổ dữ không ăn thịt con” vậy mà ông Hồ không coi trọng nghĩa cũng phu thê, cũng chẳng thương con cái thì làm sao ông ta có thể là vị “Thánh” yêu nước, thương dân như đảng cộng sản tuyên truyền và ông ta tự nhận? Hãy điểm qua những sự kiện chính để thấy điều này. 
Người Vợ Tăng Tuyết Minh: 
Bà Tăng Tuyết Minh là một người Trung quốc đã kết hôn với ông Hồ khi ông ta còn mang danh là Lý Thụy. Cho đến bây giờ đảng cộng sản vẫn giấu nhẹm việc này, nhưng để chứng minh cho bạn đọc nhất là những người còn tin vào ông “thánh” Hồ Chí Minh thì không phải là một điều khó khăn.
Đầu tiên, trên Wiki có bài viết về bà Tăng Tuyết Minh với đoạn như sau:
“Tăng Tuyết Minh (chữ Hán: 曾 雪明, 1905–1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một số học giả Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ thì bà đã kết hôn với Hồ Chí Minh, khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với ông được nửa năm cho đến khi ông phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927.[1][2] Sau này khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai người đã tìm cách liên lạc nhau nhưng không được… Tháng 10 năm 1926, hôn lễ giữa Lý Thụy, (bí danh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi đó) và Tăng Tuyết Minh được tổ chức tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến [3] của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khóa huấn luyện phụ vận.[4] Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm.”
Hẳn mọi người còn nhớ ở phần 8 tôi đã chứng minh Lý Thụy chính là một bí danh của ông Hồ khi ông ta hoạt động ở Trung Quốc và Thái khi ông ta chủ mưu bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Và bài viết trên Wiki chỉ rõ ông Hồ-Lý Thụy đã cưới bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy có thể coi bà Minh là vợ đầu tiên của ông Hồ có hôn thú và hôn lễ đàng hoàng. 
Thứ hai, hiện nay có một bức thư của ông Hồ - Lý Thụy gửi bà Tăng Tuyết Minh, đã bị mật thám Pháp tại Đông Dương chặn được và giữ lại ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d’Outre-Mer - Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence (Daniel Hémery, HO CHI MINH De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.) Khi ở Thái Lan ông Hồ đã viết bức thư này có nội dung như sau: 
“Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.”
Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy”.
Rõ ràng đây là bức thư gửi người mà ông ta đã lấy làm vợ. Điều này khẳng định ông Hồ có người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh.
Thứ ba, Theo bài Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 12-2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh (Huang Zheng) có viết:
“Tháng 5 năm 1950 Tăng Tuyết Minh nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là vị Chủ tịch Việt Nam. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành.”
Tăng Tuyết Minh khi đã cao tuổi. Trên tường nhà có treo ảnh Hồ Chí Minh (viet.com.cn)
Đây là một tác giả của Trung cộng đã thừa nhận việc ông Hồ có vợ con là sự thật. Việc sau này bà Minh lấy ông Hồ và treo ảnh ông ta trong nhà cũng nói lên sự thật là ông Hồ có vợ là bà Minh.
Thứ tư, trong cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của Mikhail Vasaep - một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ -  tại trang 363: “...Ông Hồ Chí Minh cưới người vợ Tăng Tuyết Minh tại Trung quốc sau khi được ông Lâm Đức Thụ tích cực thu xếp…”
Như vậy có thể khẳng định việc ông Hồ lấy bà Tăng Tuyết Minh là sự thật qua tài liệu này của tác giả đảng viên đảng cộng sản Liên Xô. 
Thứ năm, một nhà nghiên cứu thiên tả là bà Quinn khi đề cập đến người vợ Trung Quốc của ông Hồ cũng đã nói trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing years” của mình: “Vì một vài lý do nào đó các giới chức tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc phái nữ. Mặc dầu giờ đây phía Trung Quốc đã trình bày trước công luận cả một bức ảnh và một bài viết nói về việc ông Hồ kết hôn với một phụ nữ vào tháng Mười, năm 1926, nhưng Hà Nội vẫn chưa chính thức xác nhận.
Vậy ta có thể thấy là những gì bà Quinn nói trùng khớp vời lời kể của ông Hoàng Tranh và những tài liệu của phía Liên Xô khẳng định ông Hồ cưới bà Tăng Tuyết Minh năm 1926.
Thứ sáu, theo tác giả Daniel Hémery“Lý Thụy không gặp lại được vợ mình là Tăng Tuyết Minh từ sau năm 1927, có thể vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở Trung Hoa vào đầu năm 1927.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l''Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145.)
Ở đây cũng cần nói thêm báo Tuổi Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh đã trích đăng tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991. Tổng biên tập báo này lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm điểm và bị mất chức.
Kết luận: Qua sáu dẫn chứng chúng ta có thể thấy ông Hồ thật sự đã cưới bà Tăng Tuyết Minh chứ không phải là cả cuộc đời cô độc, không lấy vợ để lo cho dân tộc như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền. Và sự thật là sau khi đã có thể coi như là “Công thành danh toại” thì ông Hồ lại không thừa nhận và hỏi thăm bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy để có thể thấy ông Hồ đâu có phải là người trọng nghĩa phu thê, và là người chồng tồi. 
Bà Nguyễn Thị Minh Khai: 
Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941),
một trong những đảng viên đầu tiên
của đảng CSĐD - 
Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh, A life,
William J. Duiker/TTXVN.
Theo Wiki: “Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.” 

(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Minh_Khai)
Để chứng minh cho việc trước khi lấy ông Lê Hồng Phong thì bà Minh Khai chính là vợ của ông Hồ xin được dẫn chứng như sau:
Đầu tiên, trong tập thư của đảng cộng sản Liên Xô hiện lưu trữ tại cục lưu trữ liên bang Nga có một danh sách gửi tới Moscow về tên người tham gia hội nghị đảng cộng sản quốc tế năm 1935 có nói đến việc bà Minh Khai có chồng tên là Lin. Sự việc này cũng được nhà báo Bùi Tín ghi lại trong cuốn sách của mình (Thành Tín, sđd. tr. 151.):
Ngày 25-7-1935, tới Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đại diện đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó. Những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng...”.
Cũng cần phải nói thêm Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế có xác nhận Lin là một trong những bí danh của ông Hồ. Xin giới thiệu link đề bạn đọc kiểm chứng: http://bachovoihue.violet.vn/entry/show/entry_id/6045326.
Và cũng một website nữa của đảng cộng sản Việt Nam khẳng định Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Đây là bài viết trên website của bộ Nông Nghiệp Việt Nam (http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/122/21/58006/Cac-but-danh-cua-Bac-Ho.aspx). Bài viết trên của ông Nguyễn Lân Dũng có đoạn: “Lin: Dùng tại 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939.”
Như vậy có thể khẳng định Lin chính là ông Hồ và ông ta đã có vợ là bà Nguyễn Thị Minh Khai như chính bà ta khai khi đi họp ở Moscow. 
Thứ hai, theo lời con gái của bà Vera Vasilieva - một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản, kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Bùi Tín viết lời trong “Về ba ông thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội này, ông Lin hay ghé nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thường đi cùng với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow.
Như vậy có thể khẳng định nếu ông Hồ và Minh Khai chính là cặp bài trùng không những chỉ là đồng chí mà còn chính là vợ chồng như chính bà Minh Khai tự khai. 
Để minh chứng cho cái tên Phan Lan chính là Minh Khai tôi xin được nêu dẫn chứng - đó là đoạn trích trong bài viết  “Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và chị Minh Khai: Một tình yêu lớn”  trên tờ Báo Mới của đảng cộng sản Việt Nam: “Trong Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và Minh Khai đều có tham luận. Minh Khai đề cập đến "Vai trò phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống việc chuẩn bị chiến tranh chống đế quốc mới, đấu tranh cho hòa bình". Bài phát biểu của Phan Lan (bí danh của Minh Khai), đại biểu trẻ nhất Đại hội đã gây được tiếng vang và cảm tình của nhiều người”.
Thứ ba, xin được nói rõ hơn về cuốn sách của bà Quinn – một người thiên tả người Mỹ đã nói về sự kiện ông Hồ và bà Minh Khai là vợ chồng. Khám phá ra việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ do tiến sĩ Sophie Quinn-Judge tìm ra khi tham khảo các tài liệu của Quốc Tế Cộng sản ở Nga sau khi chế độ Cộng sản bị tan vỡ cùng với Liên Bang Xô Viết vào năm 1989. Chi tiết này đã được bà Quinn-Judge, một chuyên gia nghiên cứu về đảng CSVN và đặc biệt cuộc đời ông Hồ, công bố trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing Years (1914-1941)” do University of California Press xuất bản. 
Đề cập các tài liệu liên quan tới ông Hồ được Quốc Tế Cộng Sản lưu giữ ở Nga, bà Quinn-Judge cho biết: “Đống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ Chí Minh hoặc ký tắt với danh xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-Provence, tôi thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc Tế Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau.”
Liên quan tới ông Hồ và bà Minh Khai, bà Quinn-Judge cho biết: 

“Một tiết lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn Thi Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông Hồ Chí Minh

Một sự kiện thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà Huy Tập gửi tới Ban Bí Thư Miền Đông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Đại Hội Quốc Tế Cộng sản lần thứ bảy, trong đó có một người nói là 'vợ của Quốc,' còn sự kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vãi (bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải). Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói tới bà Nguyễn Thi Minh Khai. Sau này tại Mạc Tư Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình bà đã ghi là có chồng và kể tên chồng là Lin. Đó cũng là danh xưng của ông Hồ tại Mạc Tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.”
Thứ tư, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của một học giả Liên Xô cũ có tên Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 366 “Ông Hồ Chí Minh cũng đã có người vợ là người Việt Nam cũng là đồng chí của mình từ năm 1933 sau khi ông không còn liên lạc gì với người vợ đầu tiên Tăng Tuyết Minh. Người vợ thứ hai của ông Hồ Chí Minh chính là nữ chiến sỹ cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu – Nguyễn Thị Minh Khai”
Có thể nói cuốn sách của ông Vasaep xuất bản năm 1986 trước khi bà Quinn đưa ra cuốn sách của mình cho thấy chính người cộng sản Liên Xô đã biết rất rõ sự việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ Chí Minh. Cuốn sách của ông Vasaep ít được biết đến vì ngay khi xuất bản đã bị đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô phản đối vì sợ lộ bí mật về hình tượng “ông Thánh” và bị cấm xuất bản. Chỉ có vài chục cuốn được giấu đi và tôi may mắn được một người thân đã từng đi Liên Xô lao động về cho tham khảo.
Kết luận: Qua bốn dẫn chứng chúng ta có thể thấy thêm một người vợ nữa của ông Hồ chính là bà Nguyễn Thị Minh Khai - người sau này lấy ông Lê Hồng Phong làm chồng thứ hai của mình. Và cũng giống như người vợ đầu Tăng Tuyết Minh, ông Hồ chưa bao giờ dám thừa nhận có lẽ vì ông ta sợ mang tiếng là nhiều vợ, lừa dối nhân dân về sự tận tụy của mình quên cả hạnh phúc riêng cho dân tộc và trên hết là cá nhân ông ta coi những người phụ nữ chỉ là món đồ chơi mà thôi. 
Người có tên Đỗ Thị Lạc: 
Ngoài hai người vợ trên ông Hồ còn có thêm một người phụ nữ thứ ba tên là Đỗ Thị Lạc. Thậm chí bà này còn có một người con gái cùng ông Hồ. Có ít người biết về bà Lạc nhưng sự thật là ông Hồ và bà Lạc đã có con gái mà đến nay không biết người con ấy sống chết ra sao sau khi ông Hồ bỏ rơi người con này.
Khi Tiêu Văn đồng ý cho ông Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Ông Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức chị Thuần. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều, Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với ông Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Do tình hình biến chuyển, ông Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, ông Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện tình giữa ông Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa. Để minh chứng cho câu chuyện này tôi xin dẫn chứng sau đây:
Đầu tiên, trong cuốn sách “Một cơn gió bụi” của sử gia, nhà chính trị Trần Trọng Kim đã được tôi giới thiệu ở phần 12, trang 75 của cuốn sách viết: “Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm và họ đã có một người con gái chung”.
Hẳn chúng ta cũng biết ông Trần Trọng Kim đã sống cùng thời với ông Hồ và là nhà viết sử hết sức trung thực nên những gì ông viết đáng để chúng ta tin cậy. Tuy nhiên nếu chỉ có mình đoạn trích nêu trên của ông thì khó có thể làm ta tin được sự việc có con gái của ông Hồ và bà Lạc. Xin nêu thêm những dẫn chứng khác sau đây:
Thứ hai, trong cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của học giả Liên Xô cũ Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 368: “Có một người phụ nữ đã sinh cho ông Hồ Chí Minh một người con gái tại Cao Bằng (một địa danh ở Phía Bắc Việt Nam) nhưng sau này vì nhiệm vụ với cách mạng, ông Hồ Chí Minh dường như không muốn thừa nhận cháu bé …”
Đoạn trích không nói rõ tên người phụ nữ là ai nhưng những gì tác giả Liên Xô đã nói trùng khớp với nội dung về người con gái chung, nơi ở của bà Lạc mà sử gia Trần Trọng Kim đề cập. Điều này cho thấy ông Hồ thực sự có người tình và người con mà ông ta không công nhận.
Thứ ba, chúng ta cũng nên quay lại với cuốn sách của tác giả Hà Cẩn mà tôi đã từng nhiều lần giới thiệu. Trong phần 9 khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng này (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang, có đoạn ở trang 134 tạm dịch: “Cũng là đồng chí Cách mạng nhưng Mao chủ tịch không có đời sống tình ái bi đát như Hồ chủ tịch. Hồ Chủ tịch thậm chí có một người con gái với người đồng chí tên Thuần ở Pacbo mà không được công bố...”
Như đã biết người con gái tên Thuần kia chính là bí danh hoạt động của bà Đỗ Thị Lạc và những gì sử gia Trung cộng đề cập rất đúng với những nghiên cứu của sử gia Trần Trọng Kim và Vasaep.
Kết luận: Vậy qua 3 dẫn chứng có thể thấy ông Hồ đã có một người con gái với người tình Đỗ Thị Lạc. Sở dĩ tôi gọi bà Lạc chỉ là người tình vì không thấy ai đề cập đến lễ cưới cũng như hôn thú của bà và ông Hồ. Hay nói cách khác bà Lạc chỉ là một trong những người tình qua đường của ông Hồ. Và hành động không nhận, không nuôi người con gái của ông và bà Lạc cũng cho thấy bản chất vô trách nhiệm của ông ta với chính giọt máu của mình. Hay nói cách khác người con không biết sống chết thế nào của ông Hồ chỉ là kết quả ngoài mong đợi của ông ta trong chuỗi hành trình đi tìm thú vui xác thịt cho bản thân. 
Người đàn bà đoản mệnh Nông Thị Xuân: 
Mối tình với cô gái người Nùng tên Nông Thị Xuân được bạch hóa rõ ràng nhất qua nhiều nhân chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số 66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến ‘gặp’ bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị Xuân sinh cho ông Hồ một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hóa cuộc hôn nhân với ông Hồ. Ngày 11 tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp ông Hồ. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng (em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa...
Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật chị của cô do ông Hồ âm mưu sát hại. Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5 tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.
Tin này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được ông Hồ Chí Minh giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được lệnh giết cô Xuân... Năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con của ông Hồ. Được biết anh ta hiện đang được Đảng ‘nuôi’ đàng hoàng trong khu nhà sang trọng tại Hà Nội.
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), bí danh Sao đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung. Để minh chứng cho điều này tôi xin dẫn chứng sau đây:
Bà Nông Thị Xuân, sau đổi là Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1932, 
mất năm 1957. Chụp cuối năm 1956 tại Hà Nội sau khi đẻ Nguyễn Tất Trung.
Hình ảnh vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con là Nguyễn Thanh Trung 
(bên phải) tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu trắng dài là ông Vũ Kỳ (giữa)
Hình ảnh vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó - Cao Bằng (suối Lê Nin)
Đầu tiên, Toàn bộ lá thư của anh bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, xuất bản 1997 bởi nhà xuất bản Văn Nghệ dày 394 trang. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Chúng ta cũng có thể xem giới thiệu cuốn sách tại link sau:
Cuốn sách của tác giả Nguyên Minh Cần có đoạn:
“Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là để phục vụ Bác Hồ". Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.

"Em có nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co dúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết". Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái.
Qua những gì tác giả Nguyễn Minh Cần cho ta thấy thực sự ông Hồ và bà Xuân có con trai tên là Tất Trung và sau đó bà ta bị giết bởi Trần Quốc Hoàn. 
Thứ hai, câu chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên, cũng một cựu đảng viên, con trai của ông Vũ Đình Huỳnh - là cận vệ, giúp việc, lễ tân trang phục, thư ký riêng, rất gần gũi với ông Hồ. Trong cuốn sách này ông Hiên đã đề cập đến việc ông Hồ có người con tên Nguyễn Tất Trung với bà Nông Thị Xuân rồi bà Xuân bị Trần Quốc Hoàn thủ tiêu.
Cũng cần nói thêm khi ông Vũ Thư Hiên gặp ông Nguyễn Minh Cần tháng 7 năm 1993 cũng đã nói với ông Cần, sau này được ông Nguyễn Minh Cần kể lại:
“Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ", tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng", đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lới: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật...

Như vậy có thể khẳng định về việc ông Hồ và bà Xuân có người con và sau này bà Xuân bị thủ tiêu là sự thật.
Thứ 3, ngoài hai nhân chứng là ông Nguyễn Minh Cần và ông Vũ Thư Hiên thì chính người Trung cộng đã biết việc này và coi nó như một vết nhơ mà đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh muốn giấu nhẹm đi đề che đậy sự thật ông Hồ là người nhiều vợ con và không có trách nhiệm với gia đình mình. Chính tác giả Hà Cẩn tôi đã giới thiệu ở trên cũng vẫn trang 134 có viết tiếp về những người vợ của ông Hồ: “Ngoài người con gái với người phụ nữ tên Thuần, Hồ chủ tịch cũng còn có người con trai khác mà mẹ của anh ta bị chết một cách đầy ngờ vực trong một tai nạn giao thông tại Hà Nội.”
Điều này càng khẳng định thêm về sự thật mới quan hệ của ông Hồ và bà Xuân dẫn đến kết quả có con trai và bà Xuân bị giết. Tác giả Hà Cẩn không nói rõ thủ phạm là ai nhưng khi đề cập đến vụ án “đầy ngờ vực” cho thấy ngay cả đồng chí của ông Hồ cũng đặt dấu hỏi về ông Hồ và đảng cộng sản trong cái chết của bà Xuân.
Thứ 4, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh một sử gia, đảng viên đảng cộng sản Ba Lan - ông Constatin Kostadinov cũng đã viết tại trang 90 cuốn sách “Những người con của lãnh tụ như sau: “Một người con trai của chủ tịch Hồ Chí Minh có tên Nguyễn Tất Trung được nuôi nấng bởi trợ lý riêng của chủ tịch nhưng đã không nối nghiệp cha làm chính trị….”
Cuốn sách được viết năm 1982 và in năm 1984 bởi nhà xuất bản Cách Mạng ở Ba Lan. Chính việc này cũng khẳng định về cuộc tình và kết quả của ông Hồ với bà Xuân.
Kết luận: Qua 4 dân chứng chúng ta có thể thấy mối tình của ông Hồ và bà Xuân là có thật và được kết thúc bằng một số phận người con không được thừa nhận và cái chết bi đát của bà Xuân cũng như em gái bà. 
Một người phụ nữ Nùng khác – Nông Thị Trưng
Một phụ nữ cũng người sắc tộc thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác. Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân tại Việt Nam vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về ‘Bác Hồ’. Bà Ngác đã không dấu giếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian ông Hồ tại hang Pác Bó vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến ‘học tập’ với ông Hồ ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng ‘Bác’ mà hãy gọi là ‘Chú Thu’ và xưng ‘Cháu’. Thế thì sau đó chú cháu tiếp tục học tập...
Khi ông Hồ cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà ông Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng.... Ông Hồ yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’‘Cháu Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới...
Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo...” Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác với ông Hồ tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.
Đầu tiên, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker – một người thiên tả, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).
Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho's servant after the latter's return to Vietnam during the early 1940s...”
Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”
Chúng ta cũng biết ông Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942. Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách của Duiker và Time phỏng vấn ông Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ trong khi ông Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho ông Mạnh chinh là con của bà Ngác và ông Hồ bị cố tình giấu giếm đi.
Thứ hai, cũng liên quan đến sự việc ông Hồ có con với và Ngạc và có con trai, tác giả người Nga, Mikhail Vasaep cũng đề cập tới trong cuốn sách của mình đã được tôi giới thiệu ở phần trên trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bời một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng...
Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin ông Hồ có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và người con đó chính là ông Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W. Duiker.
Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thi Trưng thì tác giả Constatin Kostadinov đã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không...”
Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách của ông Kostadinov ấn hành thì ông Mạnh chưa có những dấu ấn trên chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con của ông Hồ không chỉ một mà là 2 con trai.
Thứ tư, chính tác giả Hà Cẩn trong cuốn sách của mình đã được giới thiệu ở trên cũng từng viết tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch. …”
Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và ông Nông Đức Mạnh là con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng định ông Hồ có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận.
Kết luận: Qua 4 dẫn chứng trên chúng ta có thể thây được ông Hồ và bà Ngác có một mối quan hệ già nhân ngãi non vợ chồng và có con trai là sự thật. Và sản phẩm đó chính là ông Nông Đức Mạnh
Vài mối tình ngoài lề cần tìm hiểu thêm 
Ngoài 5 người phụ nữ để lại dấu ấn bằng con cái và thảm kịch, có hôn thú như nêu trên thì còn có nhiều người phụ nữ từng là người tình của ông Hồ hay được ông ta thích thú. Điều này cho thấy ông ta không hề “hết mình lo cho dân tộc” như đảng cộng sản và ông ta tự bốc thơm mình. Và quan trọng hơn một người có nhiều vợ lại có nhiều người tình như vậy khó có thể là “vị thánh” được. Những câu chuyện về Huỳnh Thị Thanh Xuân, Phương Mai hay vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu… chưa có nhiều tài liệu kiểm chứng nên tôi không nêu ra ở đây. Trên nguyên tắc tôn trọng sự thật và không đi sâu vào bôi nhọ cá nhân nên tôi chỉ nêu lên những gì đã có bằng chứng khách quan nhất.
Ngoài ra bạn đọc cũng nên tìm hiểu cho mình về sự thật về những người tình của ông Hồ sau đây khi đã có những nguồn tin khách quan nói đến.
Một trong những người phụ nữ Tây Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín ghi trong “Về Ba Ông Thánh”, xuất bản 5/1995, (trang 149): “Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Biere nào đó...” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm tại Moscow... Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934...”
Theo tài liệu của bà Sophia Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông toàn là loại sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết!” Hồ Chí Minh còn ‘yêu’ cả vợ của Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu khi đang dan díu với người phụ nữ Nga Vera này.
Ngoài ra, trong “Ho Chi Minh” tác giả William Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của ông Hồ: Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6, tháng 6, 1931.”
Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho ông Hồ một người phụ nữ Nga để làm vợ... 
Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hoàng Bảo Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người vợ Ngacó chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến” (trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này nhờ những dịp đi ‘công tác’ với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.
Kết luận chung: Như vậy qua 6 phần chúng ta thấy ông Hồ có rất nhiều vợ, người tình và con cái chứ không phải là một “vị Thánh” như ông ta và đảng cộng sản tung hô cả đời không vợ con mà chỉ lo cho dân tộc. Đây chính là một trong những hành động nói lên sự xấu xa của người cha không nhận con, người chồng không nhận vợ, người lãnh tụ nói dối dân tộc về mình.
B. Bản chất của sự việc?
Có thể nói chuyện tình ái và chuyện có nhiều vợ con cũng chẳng là chuyện to tát. Ngày nay việc sống như vậy càng dễ được chấp nhận hơn. Các vị lãnh tụ có vợ nọ con kia là điều không quá xa lạ nhưng họ dám thừa nhận hoặc được pháp luật các nước đó phanh phui ra. Nhưng điều này với ông Hồ và đảng cộng sản lại khác. Xin được nói rõ ở đây.
Thứ nhất, đối với cá nhân ông Hồ khi ông ta có vợ con mà ông ta không chịu nhận họ, thậm chí còn làm ngơ với cái chết của họ như trường hợp bà Xuân là một tội ác. Như vậy ông ta thật là một người cha và người chồng xấu.
Thứ hai, đối với dân tộc ông Hồ cũng là kẻ lừa dối khi ông ta sinh thời không chịu công khai về vợ con mình mà để yên cho đảng cộng sản tự tung, tự tác bốc thơm ông ta không có vợ con, chỉ dành hết tâm huyết cho dân tộc và đất nước.
Thứ ba, chính đảng cộng sản cũng phải chịu trách nhiệm với ông Hồ Chí Minh về việc cùng ông ta bưng bít sự thật về những lý lịch bất minh của ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Tất Trung. Nhất là đối với một người từng giữ chức Tổng bí thư như ông Mạnh là vi phạm pháp luật. Hãy nhìn sang Mỹ để thấy ông Obama công khai lý lịch của mình từ cái giấy khai sinh cho thấy đảng cộng sản không tôn trọng pháp luật và coi thường nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, chúng ta có thể thấy sự việc ông Hồ không công khai vợ con cho thấy trong chế độ cộng sản luôn luôn tồn tại khái niệm dối lừa mà đến cả một chuyện cỏn con như chuyện có vợ con cũng bị bưng bít sự thật. Đó là sự tồi tệ của chính thể cộng sản cần phải dẹp bỏ.
Vậy bản chất sự việc không thừa nhận vợ con của ông Hồ và hành động bưng bít của đảng cộng sản ở đây nói lên điều gì? Đó chính là muốn tiếp tục lừa dối dân tộc về một con người thánh thiện giả tạo như ông Hồ để tiếp tục giữ quyền độc tài đối với dân tộc Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều người cho đến nay vẫn bị nhồi sọ với luận điệu “Cả đời Bác không vợ con chỉ lo cho nhân dân...” Bài viết này của tôi chỉ có mục đích nên lên sự thật về chuyện ông Hồ có nhiều vợ con mà ông ta không thừa nhận. Chính ông ta và đảng cộng sản đã lợi dụng điều này để lừa dối dân tộc.

Hai Bà Trưng đánh giặc nào?

Trước ngày nhập học, cháu gái tôi hầu như không rời mấy cuốn SGK còn thơm mùi giấy mới. Đang đọc say sưa bỗng nó chạy đến bên tôi, chỉ vào bài tập đọc Hai Bà Trưng (Tiếng Việt 3, tập 2, trang 4, 5) nói ông ơi, cháu đọc hoài mà vẫn không hiểu Hai Bà Trưng đánh giặc nào.
Biết ngay “mặt mày” kẻ xâm lược nhưng nghĩ con bé đọc lớt phớt nên không nắm được nội dung, tôi chưa vội chia sẻ mà tranh thủ dạy cho cháu cách đọc sách. Rằng phải đọc từ từ cho thấm, kết hợp đọc với suy nghĩ, đừng đọc theo kiểu lấy được, lướt con mắt cho xong… Giờ cháu đọc lại đi. Làm gì có chuyện viết về khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà không nêu đích danh giặc ngoại xâm.
Con bé nhăn mặt nói cháu đọc kỹ lắm rồi, vẫn không biết hai Bà đánh bọn xâm lược nào. Tôi nhổm dậy, cầm quyển sách, giương mục kỉnh lên. Và chợt ngớ ra: Lời con trẻ đúng quá. Bài học tuyệt không một chữ nào vạch mặt chỉ tên kẻ cướp mà toàn những danh từ nhợt nhạt, mập mờ, chung chung: tướng giặc, quân thù, giặc ngoại xâm, kẻ thù, quân xâm lược.
Viết về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc (năm 40 - 43) gắn với tên tuổi Hai Bà Trưng lừng lẫy nhưng SGK không hề dám nửa lời chỉ đích danh bọn xâm lược. Thậm chí cụm từ có tính hàm ngôn “phương Bắc” sách cũng không dám đặt sau cụm từ “kẻ thù”.
Vì sao SGK không cho các cháu biết quân giặc nào đã bắt tổ tiên của chúng lên non tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, để phải làm mồi cho hùm beo, thuồng luồng, cá sấu?
Vì sao SGK không cho các cháu biết giặc ngoại xâm nào đã khiến “lòng dân oán hận ngút trời”?
Và vì sao SGK không nói rõ cho các cháu biết Hai Bà Trưng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược nào, chúng từ đâu đến?
Cốt lõi của lịch sử là sự thật. Mỗi dòng lịch sử nước ta đều được viết bằng mồ hôi và máu của nhiều thế hệ. Nên có thể nói mỗi trang sử là một mảnh hồn thiêng sông núi. Không thể chấp nhận bài học lịch sử… nửa vời với cách trình bày ngắc ngứ, lấp lửng, loanh quanh, thiếu minh bạch, nếu không muốn nói là né tránh, bưng bít như thế.
Ở Lạng Sơn từng xảy ra chuyện tấm bia kỷ niệm chiến thắng của bộ đội ta bị đục bỏ những chữ điểm tên chỉ mặt quân thù. Người ta đã đổ thừa cho mưa nắng, cho sức tàn phá của thời gian. Còn với SGK Tiếng Việt 3, người làm sách đổ thừa như thế nào? Người lớn sao lại làm khuất lấp tên tuổi kẻ thù của Hai Bà Trưng để trẻ con phải băn khoăn? Thật khó giáo dục HS niềm tự hào, lòng yêu nước khi SGK đã thiếu công bằng, thiếu trung thực đối với lịch sử.
Trong lúc hy vọng bài học này sẽ được các nhà làm sách trả lại sự phân minh trắng đen sòng phẳng, tôi phải nói ngay trước đôi mắt mở to của cháu tôi rằng bọn giặc xâm lăng nước ta bị Hai Bà Trưng đánh không còn manh giáp chính là giặc Hán (Trung Quốc).

Tuesday, September 4, 2012

HSBC: Điều tốt đẹp sẽ đến với Việt Nam nếu biết chờ đợi (Either HSBC economists are so dumb or they just lie on purpose)

HSBC dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,1% trong năm 2012 với khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng.
Hôm nay (4/9), HSBC vừa công bố báo cáo về tình hình kinh tế Việt Nam có nhan đề "Vietnam at a glance: Good things come to those who wait" - tạm dịch: Điều tốt đẹp sẽ đến với những ai biết chờ đợi" với những nhận định khá tích cực.

Theo báo cáo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã giảm tốc đáng kể do phải cố gắng thoát khỏi tình trạng nợ xấu và nền kinh tế hoạt động không hiệu quả. Tuy nhiên, sự giảm tốc này là điều cần thiết để có thể giải quyết những vấn đề đã tồn tại nhiều năm nay. Ví dụ như, quyết tâm của Việt Nam trong việc chấp nhận sự thực là nền kinh tế đang bị trì trệ bởi khu vực nhà nước hoạt động không hiệu quả là rất cần thiết để có thể tìm ra giải pháp. 

Việt Nam cần phải kiên nhẫn để có thể thoát khỏi tình trạng nhu cầu yếu ớt ở cả trong và ngoài nước. Chỉ số PMI tháng 8 vẫn ở dưới mức 50 điểm. Tuy nhiên, tỷ lệ suy giảm đã thấp đi rất nhiều. Mặc dù giá xăng trong nước tăng cao, lạm phát đã giảm từ 5,5% trong tháng 7 xuống chỉ còn 5,0% trong tháng 8. Dự trữ ngoại hối đã tăng lên và VNĐ ở mức ổn định giúp tăng cường sức mạnh của Ngân hàng nhà nước. 

Việt Nam sẽ không thể có được những diễn biến tích cực này nếu như không có quyết tâm  mong muốn hạ nhiệt nền kinh tế. Với sự kiện nhẫn và những cải cách mạnh mẽ, khi sóng gió đã qua đi, kinh tế Việt Nam sẽ trở nên quy củ hơn và sẵn sàng cạnh tranh khi kinh tế toàn cầu phục hồi. 

Xuất khẩu vẫn khá kiên cường khi tăng trưởng ở mức 2 con số mặc dù vẫn thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước. Tăng trưởng xuất khẩu là 13% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu nhờ vào các mặt hàng điện tử. 

Trong khi đó, nhập khẩu cũng khả quan, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Điều tích cực là nhập khẩu tăng mạnh ở các mặt hàng chủ yếu là máy may, linh kiện điện từ và thép – những yếu tố cấu thành nên các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt. Do đó, xuất khẩu sẽ tăng mạnh trong những tháng tới. 

Nhìn qua, các hoạt động kinh tế vẫn diễn ra sôi động ở những thành phố như TPHCM. Số lượng khách du lịch đến đây vẫn ở mức cao và các nhà hàng vẫn đầy ắp khách du lịch. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ, các công trình xây dựng đang bị ngừng lại và doanh số xe hơi bán ra sụt giảm. Nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều so với trước.

Một điều quan trọng là mặc dù đã suy giảm kể từ đầu năm đến nay, doanh số bán lẻ vẫn tăng trưởng nhanh hơn so với cùng kỳ năm 2011. Một trong những yếu tố chính là lạm phát suy giảm đã thúc đẩy hoạt động của các nhà hàng và khách sạn. Việt Nam vẫn tiếp tục thu hút du khách, đẩy tăng doanh số bán hàng của khu vực dịch vụ và du lịch. 

Mặc dù vụ việc bắt giữ ông Nguyễn Đức Kiên làm dấy lên lo ngại về sự suy giảm của nền kinh tế và khủng hoảng ngành ngân hàng, HSBC tin rằng nền kinh tế vẫn đủ mạnh để có thể thực hiện được quá trình giảm nợ. Các “ngôi sao sáng” của nền kinh tế vẫn tiếp tục tỏa sáng: xuất khẩu tiếp tục tạo ra thu nhập cao cho nền kinh tế và khu vực dịch vụ vẫn mạnh mẽ. 

Sự yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước và doanh số sụt giảm ở khu vực bất động sản có thể được sửa chữa một khi NHNN đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng. Xu hướng đầu tư quá nhiều vào bất động sản và các hoạt động kinh doanh không tạo ra được lợi nhuận cần phải được điều chỉnh. 

HSBC lạc quan cho rằng chính phủ Việt Nam sẽ làm được những điều có lợi cho nền kinh tế. Trong quá khứ, các nhà hoạch định chính sách đã chứng minh rằng họ sẵn sàng đương đầu với thách thức khi cần thiết. Việt Nam cần có cách thức cải cách kiên nhẫn hơn để có thể giảm bớt nợ xấu và tạo nên hệ thống kinh tế hoạt động hiệu quả hơn.

Ts. Trần Du Lịch: Bức tranh kinh tế 2013 không quá ảm đạm (hahahaha)

4 tháng cuối năm CPI tăng mỗi tháng 1% là nằm trong dự báo. 8 tháng doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động tăng 7,1% là đáng lo ngại; lãi suất huy động VND khó kéo sâu hơn mức 9% hiện nay.
Cuối tuần qua, tại Tp. Hồ Chí Minh, VCCI và Laisuat đã tổ chức buổi hội thảo: Ngân hàng và doanh nghiệp – khơi thông nguồn vốn. Tại hội thảo này, Tiến sĩ Trần Du Lịch đã có bài trình bày về “Kinh tế Việt Nam: Tình hình và triển vọng”.

4 tháng cuối năm CPI tăng mỗi tháng 1% là nằm trong dự báo

Theo quan điểm của Ts. Trần Du Lịch, đến hết tháng 8 CPI đã tăng 2,86%, nếu Chính phủ không có động thái gì, thêm 4 tháng còn lại CPI sẽ tăng khoảng 5-6% so với so với tháng 12/2011.

Nhưng chúng tôi đã đề xuất từ tháng 5  là phải chuyển chính sách từ lạm phát thụ động sang chính sách lạm phát chủ động, tức là chúng ta kích thích để có CPI cả năm 2012 khoảng 7-8%.

Vì vậy trong những tháng tới, nếu CPI tăng 1%/tháng chúng ta không nên lo lắng bởi nó nằm trong kế hoạch dự báo.

Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp FDI ổn định hơn doanh nghiệp trong nước

8 tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 73,4 tỷ USD, tăng hơn 17% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, từ tháng 6 về trước xuất khẩu tăng rất cao 24 – 25%; tháng 7 và tháng 8 kim ngạch xuất khẩu đã bắt đầu giảm dần.

Nguồn: Số liệu Hải Quan Việt Nam, riêng tháng 8 số liệu GSO. Q. N

Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng mạnh ở khu vực doanh nghiệp FDI, còn doanh nghiệp trong nước gần như không thể tăng. Điều này cho thấy, thị trường xuất khẩu của khu vực FDI ổn định hơn thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.

Về thị trường nội địa, 8 tháng tổng mức hàng hóa bán lẻ tăng 17,9%, nếu loại yếu tố giá tổng mức hàng hóa bán lẻ tăng 6,8%. Như vậy, sức mua thực tăng 6,8% - đây là điều không qua tệ đối với thị trường Việt Nam.

8 tháng doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động tăng 7,1%

Đối với thị trường tiền tệ, trong 8 tháng, tổng phương tiện thanh toán M2 tăng 10,3% nhờ tiền gửi tăng. Tuy nhiên, tín dụng tăng 1,4%, huy động vốn tăng 10,26%. Điều này cho thấy thị trường tiền tệ đang bị nghẽn.

Trong khi đó, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 28/08, 8 tháng đầu năm có 46.000 doanh nghiệp lập mới, có 35.483 doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động, tăng so với cùng kỳ năm trước 7,1%. Đây là vấn đề đáng lo ngại.

Hiện Việt Nam có khoảng 670.000 doanh nghiệp, trong đó 470.000 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 70% tổng số doanh nghiệp. Như vậy, số doanh nghiệp lập mới chiếm khoảng 7% số tổng doanh nghiệp là một mức trung bình ở nhiều nước.

Dự báo cho những tháng cuối năm 2012

Ts. Trần Du Lịch cho rằng, từ nay đến cuối năm, Chính phủ vẫn điều hành theo Nghị quyết 13, CPI những tháng cuối năm sẽ tăng trở lại nhưng cả năm ở mức 7-7,5% so với tháng 12/2011l; lãi suất không thể giảm sâu; tỷ giá khá ổn định.

Lãi suất huy động khó kéo sâu hơn nữa - ở mức 9%/năm, bởi lạm phát kỳ vọng 7,5% thì lãi suất huy động 9% đã giữ được mức lãi suất dương. Nếu giảm lãi suất nữa, nguy cơ người dân đầu tư sang vàng và USD.

Ông Trần Du Lịch cho rằng, dư nợ tín dụng cuối năm tăng khoảng 10% là không khả thi. Bởi mỗi tháng tăng 2% dư nợ - khoảng 100.000 tỷ đồng là không thể, khả năng hấp thu về vốn khá chậm, trừ khi Chính phủ cho khoanh nợ một số đối tượng: doanh nghiệp đang thế chấp nhà máy, không trả được nợ và trở thành nợ xấu, Chính phủ cho phép khoanh nợ và vay mới.

Về chính sách tài khóa, vấn đề đặt ra hiện nay là giảm thu.

13 tỉnh thành có thặng dư ngân sách: tổng thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp trừ (-) chi thường xuyên dương.
Nguồn: Số liệu Bộ Tài chính. Q. N

Hiện, trong 13 tỉnh thành có nguồn thu đóng góp cho ngân sách, có địa phương không thu được như kế hoạch trong đó có Tp. Hồ Chí Minh. Giãn thuế, giãn thời gian nộp thuế.... không có nguồn thu, không thể thực hiện chính sách đầu tư.

Dự báo thị trường năm 2013?

Những dự báo mới nhất về thế giới: IMF cho rằng kinh tế toàn cầu năm 2013 có thể tăng 3,9% - khá hơn năm 2012 ước chỉ tăng 3,5%; nhưng, một số tổ chức khác cho rằng tăng trưởng toàn cầu không khả quan hơn khoảng 3% - do vẫn còn ảnh hưởng của nợ xấu châu Âu.

Điều này đồng nghĩa chúng ta không trông chờ vào sự cải thiện thị trường thế giới mà phải tự cứu mình, tìm kiếm thị trường trong nước.

Vì vậy, Ts. Trần Du Lịch cho rằng, năm 2013, kinh tế Việt Nam vẫn ở mức tăng trưởng chậm, tạm gọi là còn trì trệ.

Về thị trường: đầu tư chưa tăng nhanh được; sức mua tăng chậm; thị trường bất động sản vẫn ì ạch – do hậu quả của bong bóng bất động sản, nợ xấu ; thị trường chứng khoán “sớm nắng chiều mưa” do bức tranh vĩ mô.

Nhìn chung bức tranh 2013 không quá ảm đạm, nhưng cũng không ấm lên một cách rõ nét, nhưng kỳ vọng không xấu hơn.

Do nguyên nhân sâu xa của lạm phát - lạm phát cơ cấu nên chính sách tiền tệ và tài khóa không thể nới lỏng, CPI năm 2013 theo ông Trần Du Lịch dự kiến ở mức khoảng bằng năm 2012, tỷ giá ổn định, biến động nhẹ.

Ông Trần Du Lịch cũng cho rằng năm 2012 Chính phủ còn tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ phục vụ cho mục tiêu ổn định vĩ mô, hỗ trợ thị trường, củng cố hệ thống ngân hàng thương mại, xử lý nợ xấu là ưu tiên số một, vai trò nhà nước ở mức độ nào đó; để thị trường tự điều tiết.

Anh lính thông tin '5 phút trở thành anh hùng' (a ridiculous joke. Even 8th grade students don't beleive))

ể cấp trên liên lạc chỉ huy trận đánh Quảng Trị năm 1972, ông Hoan kéo căng hai đầu dây cáp đứt rồi lấy răng cắn lại. Khi cuộc gọi dài 5 phút kết thúc, toàn thân ông co rúm lại do bị dòng điện chạy qua.

Trong thời kỳ mưa bom bão đạn, dây thông tin là cầu nối quan trọng nhất trong việc thống nhất chỉ huy. Nhiều trận đánh, bom địch làm đứt nhiều đoạn cáp, do không đủ dây nối nên chính chiến sĩ Trần Duy Hoan (huyện Bình Lục, Hà Nam) đã dùng răng cắn hai đầu dây để nối liền đường truyền, đảm bảo thông tin được thông suốt truyền lệnh chiến đấu.
Ảnh: Văn Định.
Ông Hoan vẫn khỏe mạnh ở tuổi 72. Ảnh: Văn Định.
Trong căn nhà nhỏ nằm khép mình giữa vùng thôn quê ở xã Vũ Bản (Bình Lục) ông Trần Duy Hoan vẫn hằng ngày làm lụng mưu sinh khi đã ở tuổi 72. Chiến tranh đã qua hơn 3 thập kỷ nhưng những dư âm về thời bom đạn ác liệt vẫn luôn hiện nguyên trong mắt người lính thông tin Trần Duy Hoan.
Năm 1968, như bao thanh niên khác, ông vào quân ngũ và được chuyển lên Trung đoàn Thông tin 134 (nay là Lữ đoàn 134) thuộc Binh chủng Thông tin. Hồi đó, thông tin liên lạc luôn là mục tiêu hàng đầu bị địch đánh phá. Do vậy, những người lính như ông Hoan thường xuyên phải luyện tập khắc phục sự cố đường dây, rèn luyện kỹ thuật rải dây nhanh qua mọi địa hình, ghim chắc và dò sóng liên lạc vô tuyến điện tốt nhất.
"Đối với mỗi người lính thông tin, đường dây là ruột của mình, cột xà là xương còn vũ khí là cuộn dây và cái kìm. Vậy mà chúng tôi vẫn phá rất nhiều bom mìn của địch trút xuống", người lính năm xưa nhớ lại.
Sau thời gian ở chiến trường Lào, ông cùng đồng đội tiếp tục quay sang chiến dịch Quảng Trị. Khi đó, dây điện thông tin chủ yếu là dây cáp, dây trần và dây bọc, tất cả đều bị bom của quân địch đánh phá, làm đứt. Muốn khôi phục, chỉ còn cách dùng dây bọc dã chiến để nối lại, có đoạn chỉ 2 m nhưng tới hơn chục mối nối.
Ảnh chụp lại tư liệu.
Ông Hoan trong bức hình được chụp đăng báo. Ảnh chụp lại tư liệu.
Ông kể, những ngày hè bỏng rát tại Quảng Trị năm 1972, địch đánh phá ác liệt từ Vĩnh Linh vào sông Thạch Hãn nhằm chia cắt đường thông tin của ta từ Hà Nội vào Nam. Đoạn dây thông tin của tổ 29 do ông làm Tổ trưởng bị đánh ác liệt nhất. Đầu này ta vừa nối xong, chúng đã ném bom đứt đầu kia. Có đoạn nhiều mối nối quá, hết dây dự phòng, ông kéo căng hai đầu dây nhưng không tới, trong khi chỉ ít phút nữa là thông tin cần được nối liền. Ông Hoan đã ghì hai đầu dây cho vào răng và cắn chặt lại.
"Lúc đó, cấp bách quá mà thông tin mật không được chậm một phút. Không chần chừ, tôi ghì hai đầu dây lại cắn chặt để nối chứ không nghĩ là nhờ đó có thể giúp thông tin được đảm bảo trong 5 phút", ông Hoan nhớ lại và cho hay, kết thúc cuộc gọi cũng là lúc toàn thân ông co rúm, bất tỉnh và nửa giờ sau mở mắt thì thấy đang nằm trong tay đồng đội.
"Tôi cũng không nghĩ nhờ hành động đó của mình mà toàn bộ khẩu lệnh quan trọng của lãnh đạo Bộ được truyền nguyên vẹn đến chiến trường giảm bao tổn thất cho đồng đội", người cựu binh vui vẻ kể. Ánh mắt người lính quả cảm năm xưa sáng lên niềm vui bởi hành động mưu trí, dũng cảm của ông đã góp phần không nhỏ vào chiến thắng cuối cùng trong chiến dịch xuân hè năm 1972.
Người lính già chia sẻ thêm, lúc bấy giờ mệnh lệnh quan trọng, khẩn cấp nếu dùng thông tin vô tuyến sẽ không đảm bảo bí mật vì có thể bị địch nghe trộm. Hơn nữa lại mất công số hóa bằng mật ngữ liên lạc, tới nơi thông tin viên lại phải dịch ra cho các đồng chí tư lệnh nên mất nhiều thời gian. Vì thế, những mệnh lệnh đặc biệt, hỏa tốc thường được bảo đảm bằng thông tin hữu tuyến. "Đây là trách nhiệm của mình không thể thoái thác, càng chậm đồng đội mình càng thêm đổ máu. Chính vì thế, dù khó khăn đến mấy chúng tôi cũng quyết hoàn thành bằng mọi giá", ông nói.
Chiến dịch 81 ngày đêm kết thúc, ông Hoan được ra Bắc và thi đỗ vào Học viện Quân sự. Tốt nghiệp, ông giữ chức Đại đội trưởng thông tin cho mạng lưới thông tin tại Hà Nội, Hà Tây cũ và Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc). Năm 1973, ông vinh dự được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Giờ đây, khi tuổi đã bước sang 72, người lính già Trần Duy Hoan vẫn cần mẫn làm lụng, giúp đỡ vợ con và được bà con lối xóm yêu quý.

Monday, September 3, 2012

Đổi vợ làm tình-thú chơi biến thái ở Sài Gòn

Hội này đang tồn tại ngấm ngầm giữa lòng thành phố, hoạt động thậm thụt, không ồn ào và trở thành mốt sa đọa của một số người.
Một chòi lá trong khu du lịch ở Tây Ninh là điểm sinh hoạt của nhóm swing. Ảnh: ANTG
Trên trang web của một câu lạc bộ swing vùng LasVegas (Mỹ), một ngày sau khi nhận được đoạn chat và vài dòng giới thiệu, một người trả lời bằng tiếng Việt rất rõ ràng: "Chao ban. Rat tiec la toi dang o My. Neu ban thich, toi se gioi thieu mot nguoi ban cua toi dang sinh song tai Saigon".

Ngay sau khi nghe trình bày lý do gọi điện làm quen, Phi trả lời gọn "Ông nhầm người" rồi tắt máy. Nhưng hôm sau, Phi gọi lại bằng thái độ ân cần vui vẻ, mời đi uống cà phê. Anh ta hẹn ngày 19/8 đi một mình đến gặp vợ chồng Phi tại quán cà phê trên đường Nguyễn Văn Cừ (quận 1, TP.HCM). Cạn ly cà phê vẫn chưa thấy Phi đến, bất chợt người ngồi bàn bên cạnh đến mượn bật lửa mồi thuốc. Mồi thuốc xong, anh ta hỏi: "Có phải anh là… không?". Thấy khách gật đầu, anh ta ngồi xuống, nói mình là Phi rồi ngoắc cô gái trẻ ngồi lẻ loi một mình trong góc quán đến ngồi chung bàn. Đó là vợ Phi.

Phi tự giới thiệu mình 38 tuổi và cô vợ tên Ngọc 25 tuổi. Phi tốt nghiệp cử nhân ở Úc và cô vợ tốt nghiệp cử nhân tại Sài Gòn. Phi có vẻ gai góc sành đời bao nhiêu thì cô vợ có vẻ ngây thơ bấy nhiêu. Trong khi Phi liến thoắng trò chuyện thì cô vợ e thẹn, ngại ngùng khép kín. Mọi câu trả lời, cô ta đều chuyển sang cho chồng.

Khi bị hỏi về nhân thân, Phi khuyên: "Với những thành viên đã gia nhập trong hội, tiết lộ thông tin cá nhân như thế là quá nhiều. Quy định cơ bản nhất cho các thành viên trong hội là: Gặp, thấy, làm nhưng không biết". Có nghĩa là, các thành viên gặp gỡ nhau để biết mặt và làm tình chứ không nên tò mò tìm hiểu về nhau. Ai vi phạm, đuổi ngay ra khỏi cuộc chơi và không có cơ hội tái gia nhập.

Phi cho biết, buổi cà phê hôm nay, anh ta có nhiệm vụ kiểm tra "hộ chiếu" trước khi xét duyệt vào hội. "Hộ chiếu" là giấy đăng ký kết hôn của người xin nhập hội. Quy định của hội là, người nào giới thiệu thành viên mới, người đó chịu trách nhiệm kiểm tra "hộ chiếu" và hoàn toàn chịu trách nhiệm về người mới. Đổi lại, người bảo lãnh, giới thiệu được ưu tiên trao đổi vợ với thành viên mới như là một thủ tục "xét tuyển". Bất cứ thành viên mới nào cũng phải vượt qua cửa ải này để chứng tỏ thiện chí. Phi trấn an, chỉ duy nhất một lần người bảo lãnh kiểm tra "hộ chiếu", kiểm tra nhân thân và thủ tục "xét tuyển" người xin vào hội để chống "mọt".

"Mọt là cánh nhà báo, công an hay những kẻ chưa vợ chui vào hàng ngũ. Anh yên tâm, đây là lần duy nhất anh tiết lộ nhân thân. Tụi tôi không lưu giữ thông tin này", Phi giải thích. Và để chứng tỏ đó là quy định chung, Phi chìa ra giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của họ. Sau khi xem bản photo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, Phi hỏi thêm vài chi tiết như: Vợ anh có đồng ý tham gia không? Đã từng tham gia swing lần nào chưa? Trình độ học vấn? Đang cư ngụ quận nào? Lý do gia nhập hội? Câu trả lời không cần chi tiết.

Sau khi xem tấm ảnh cô gái mặc đồ tắm được giới thiệu là vợ thành viên mới, ánh mắt Phi như dính cứng vào bức ảnh một lúc, rồi nói như tuyên bố: "Ố khày! Vợ chồng anh được gia nhập. Pass của anh là Con Chim Dễ Thương. Nếu chat online thì chúng tôi gọi anh là conchimdethuongOX. Còn vợ anh là conchimdethuongBX. Anh phải tạo một nick yahoo mới chuyển cho tôi. Nick yahoo không được trùng với pass. Khi nào sinh hoạt, chúng tôi sẽ thông báo cho anh qua mail. Nếu người nhắn tin gọi không đúng pass, anh đừng trả lời. Khi nhận được mail yêu cầu gặp nhau chỗ cũ thì anh phải hiểu chỗ cũ tức là quán cà phê X ở Bàu Cát, Tân Bình. Xem mail xong phải xóa ngay".
Ăn nhậu rồi bốc thăm để ghép ông này vào bà kia, sau đó các thành viên có quyền "vui vẻ" với đối tác. Ảnh: ANTG
Phi cho biết, nhóm swing của mình không phải là duy nhất bởi TP.HCM có khoảng 10 nhóm swing hoạt động riêng rẽ. Nhóm của Phi lập từ cuối năm 2009 do một người có pass là Bim Swing OX. Bim Swing OX học thiết kế đồ họa ở Úc về nước năm 2007. Khi còn ở bên đó, Bim Swing có tham gia một câu lạc bộ trao đổi vợ chồng làm tình. Khi về Việt Nam, trong lần đi Vũng Tàu tắm biển, họ quen một cặp vợ chồng ở chung khách sạn. Sau cuộc nhậu làm quen, họ đã trao đổi vợ chồng cho nhau. Sau chuyến đó, hai cặp vợ chồng này rủ rê thêm vài cặp khác tham gia chơi trò này.

Và chuyến sinh hoạt "giao lưu" đầu tiên của họ là một ngày cuối năm 2009 tại Đà Lạt. Hiện giờ nhóm của họ có 8 cặp vợ chồng, trong đó có một cặp chồng Mỹ, vợ Việt. Tuổi của thành viên trẻ nhất là 26 và cao nhất là 40. Tất cả đều có bằng cử nhân ở các chuyên ngành khác nhau.

Họ thường chọn ngày cuối tuần, cuối tháng hẹn nhau tại một khu du lịch để ăn nhậu, trò chuyện. Khi ăn nhậu họ tạo lá thăm đánh số từ 1 đến 8 rồi để các bà bắt trước. Bắt dính số nào thì mang số đó. Sau đó, các ông bắt thăm được số nào thì trở thành cặp đôi với người phụ nữ mang số đó. Nếu trùng số với vợ mình thì xóa rồi bắt lại. Nếu anh 26 tuổi bắt đúng số phụ nữ 40 tuổi thì cũng phải "làm tròn nghĩa vụ" chứ không được từ chối bởi bất cứ lý do gì.

Khi đã chia đôi xong, các cặp dìu nhau vào phòng muốn làm gì thì làm trong 3 giờ. Thời gian kết thúc, chỉ cần phụ nữ than phiền về người đàn ông "chơi không đẹp", thì cặp đôi đó sẽ không còn cơ hội tham gia lần sau.

Do chỉ có 8 cặp trao đổi lòng vòng riết cũng nhàm, nhóm này bàn với nhau tuyển thêm thành viên để có "làn gió mới". Họ đề ra quy định tuyển dụng: Các cặp vợ chồng từ 25 tuổi trở lên đến 40 tuổi, có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn; Không phân biệt giai cấp, tầng lớp, sang hèn, nghề nghiệp; Không phân biệt xấu đẹp; Không tiếp nhận các trường hợp chưa xác định giới tính hoặc giới tính không rõ ràng; Không tiếp nhận người không có khả năng hành vi dân sự và độc thân.

Nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt là không tìm hiểu đời tư và số điện thoại của bạn tình; Không quấy rầy, đeo bám, tiếp cận ngoài buổi sinh hoạt; Không quay phim, chụp hình lẫn nhau; Luôn lịch sự, ân cần và thỏa mãn phụ nữ; Không tỏ thái độ ghen, gây sự, đánh nhau; Không tranh giành bạn tình của nhau; Kết thúc một chuyến sinh hoạt, tổng chi phí được phân đều cho các thành viên góp vào chi trả.

Phi khẳng định, trong những chuyến sinh hoạt, chưa từng có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Đang trò chuyện bỗng Phi quay sang nói nhỏ gì đó với cô vợ. Cô ta lắc đầu quầy quậy, mặt đỏ bừng. Phi nháy mắt bảo nhỏ với khách: "Sáng chủ nhật, tụi tôi hẹn nhau cà phê ở đây. Ông cứ đưa bà xã ra đây làm quen với mọi người. Còn bây giờ, nếu hứng, ông gọi bà xã ra đây, tui với ông trao đổi".

Dấu hiệu lạc quan cho thị trường bất động sản (hahaha)

Các chuyên gia kinh tế lạc quan nhận định, trong năm 2013, khi Chính phủ đã có những quyết sách điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô chắc chắn thị trường BĐS sẽ ấm dần...
Tính đến thời điểm này, thị trường bất động sản (BĐS) chưa có nhiều dấu hiệu tích cực, song không ít người dự đoán rằng, sau một thời gian đóng băng để thanh lọc những nhà đầu tư và doanh nghiệp “ốm yếu”, thị trường BĐS đã và đang từng bước phục hồi.

Đó là việc nhiều ngân hàng đồng loạt giảm lãi suất cho vay mua nhà đất, phân khúc căn hộ giá rẻ, trung và cao cấp đã có mức giá bán “chạm đáy” nên có thể coi đây là thời điểm "vàng" để người dân quyết định mua những ngôi nhà phù hợp với điều kiện kinh tế của mình. Điều này được chứng minh tại thị thường BĐS Hà Nội, nhiều khu đô thị đồng loạt giảm giá bán, giá mà các chủ đầu tư đưa ra hầu hết đều dưới giá thành, bởi chủ đầu tư đang cắt lỗ để trả nợ ngân hàng nên vẫn có giao dịch. Tại TP HCM, giá nhà đất chỉ giảm 3 - 8% so với cùng kỳ năm ngoái...

Tất nhiên, mỗi một phân khúc đều có mức giá nhất định, chịu sự tác động của thị trường và phù hợp với nhu cầu mỗi người, chính vì thế, xu hướng giảm giá để kích cầu hay khuyến khích người tiêu dùng tiếp cận với từng loại nhà đất là hoàn toàn hợp lý. Đây không chỉ là giải pháp tình thế mà nó thật sự mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp trong điều kiện phải “lấy ngắn nuôi dài” để vượt qua thời điểm khó khăn này.

Suốt một năm qua, các phân khúc về nhà ở từ cao cấp, trung bình đến nhà giá thấp đều được Nhà nước đưa ra những chính sách ưu đãi để người dân có điều kiện tiếp cận, cùng với đó là tháo gỡ những khó khăn chung cho doanh nghiệp. Từ thực tiễn những biến động của thị trường BĐS, các doanh nghiệp tỉnh táo hơn, có điều kiện nhìn lại mình, tái cấu trúc và tìm ra những giải pháp kinh doanh hiệu quả và bền vững.

Các doanh nghiệp cũng đều có chung quan điểm, chỉ khi nào cơ chế lãi suất thấp, các thủ tục hành chính rút gọn tối đa, công khai và minh bạch, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực xây dựng và việc giải phóng mặt bằng ở các địa phương được tiến hành nhanh, đúng tiến độ với sự đồng thuận của chính quyền cơ sở thì mới có thể giảm giá nhà một cách bền vững được.

Ít ai có thể nghĩ rằng vào những ngày này, tại một số khu đô thị của Hà Nội, giá nhà chỉ còn 10 - 14 triệu đồng/m2. Đây được coi là một giải pháp thức thời, đáp ứng cho một bộ phận thu nhập thấp và họ mua để sử dụng thật sự. Tuy nhiên, về lâu dài, các phân khúc như nghỉ dưỡng, cao cấp, biệt thự, nhà vườn sinh thái… mới có tiềm năng phát triển. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển chung tại các thành phố lớn.

Từ những nhận định trên, các chuyên gia kinh tế lạc quan nhận định, trong năm 2013, khi Chính phủ đã có những quyết sách điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô, kích thích phục hồi kinh tế như giãn, giảm thuế, giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp BĐS với mức lãi suất ưu đãi, nhằm kích cầu đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp đang thực hiện dở các dự án, chắc chắn thị trường BĐS sẽ ấm dần...

Sunday, September 2, 2012

Nguyễn Phú Trọng - Nguyễn Tấn Dũng đánh phá nhau: Tự phơi bày bản chất chế độ tư bản hoang dã!

Phong trào Tự phê bình và phê bình do Nguyễn Phú Trọng đang phóng tay phát động chỉ cốt đánh phá Nguyễn Tấn Dũng vì chỉ biết ăn mà không biết chia. Chứ tuyệt nhiên Nguyễn Phú Trọng không có thiện ý và quyết tâm từ bỏ những nguồn gốc đang gây nguy hiểm cho VN là chế độ độc tài toàn trị với Kinh tế thị trường định hướng XHCN và cúi đầu trước Bắc kinh !

Đúng vào dịp kỉ niệm 67 năm Cách mạng Tháng 8 thì xẩy ra vụ „bầu Kiên“ và Tổng giám đốc Ngân hàng Á châu (ACB) Lý Xuân Hải bị bắt giam.# Ông Kiên được coi là một đại gia, một trong vài người giầu có nhất dưới chế độ toàn trị. Ông từng là người sáng lập Ngân hàng Á châu và đang cầm đầu nhiểu cơ sở tài chính và kinh doanh khác. Giầu có nhanh dưới chế độ toàn trị tất phải có thế lực chính trị đằng sau nâng đỡ và bảo vệ. Vậy mà tỉ phủ Kiên vẫn bị bắt! Báo chí quốc tế đã gọi đây là „Biến động chưa từng thấy’“ #. Biến động này đang gây sốc rất lớn trong chính trị, kinh tế và giao động mạnh ngay trong lòng chế độ. Điều gì đang xẩy ra: Chẳng lẽ luật pháp của chế độ toàn trị đã trở lại nghiêm minh? Hay đang diễn ra một cuộc thanh toán giữa các nhân vật và phe phái có quyền lực nhất hiện nay?
Cuộc thanh toán lẫn nhau trong chế độ tư bản hoang dã đã đạt tới cao điểm mới
Quan sát các vụ án từ Năm Cam (2003), PMU 18 (2006), tới Vinashine, Vinaline và vụ án Bầu Kiên –đây là kết quả của xã hội đen dưới chế độ gọi là Kinh tế thị trường định hướng XHCN, một biến tướng của chủ nghĩa tư bản thời hoang dã của vài thế kỉ trước đây- thì thấy có những điểm chung rất rõ ràng: 1. Đây là những vụ làm ăn theo kiểu mafia, tham nhũng, làm giầu bất chính của các tham quan và đại gia dưới sự cấu kết, bảo vệ của những người có quyền lực đứng đằng sau các cơ quan đảng và nhà nước. 2. Từ chỉ liên quan tới một số cán bộ cấp trung (vụ Năm Cam) đã mở rộng lên các bộ, ngành trung ương, kể cả Tổng bí thư (vụ PMU 18). 3. Nhưng hiện nay các vụ Vinashin, Vinaline và bầu Kiên đã chui lọt lên tới cả Bộ chính trị và các phe đang tìm mọi cách thanh toán, hạ bệ lẫn nhau, từ các màn trình diễn tự phê bình và phê bình tới các vụ bắt giữ đàn em và bôi xấu lẫn nhau.
Những hành động tấn công nhau, hạ bệ nhau, bôi xấu nhau giữa những người có quyền lực cao nhất của chế độ toàn trị đã được chính họ chuẩn bị và thực hiện và trong thời gian gần đây càng gia tăng. 
Sau khi quyền có trong tay từ Đại hội 11 (1.2011) ông Tổng Trọng đã mở cuộc tấn công vào „nhóm lợi ích“ ở ngay trong cấp cao nhất là Bộ chính trị đã từng tìm cách ngăn cản không muốn để ông nhẩy lên ghế Tổng bí thư. Tức là những người có quyền đang lợi dụng quyền lực để thao túng các tập đoàn, các tổng công ti, các ngân hàng để thu lợi riêng; đồng thời còn cất nhắc, bảo vệ cho con cái, bè cánh cả trong lẫn ngoài đảng để thao túng các cơ quan đảng, chính phủ và rút ruột, xà xẻo các tập đoàn cũng như tổng công ty nhà nước. Vì chưa đủ thế lực để tấn công trực diện, nên người cầm đầu chế độ toàn trị phải sử dụng sở trường của mình trong ngôn ngữ để hạ uy tín của đối thủ, trong đó đã dùng diễn đàn của Đảng nói bóng gíó, diễu cợt tới cả nhạo báng một số đồng liêu đối thủ. Thật vậy, trước hơn 1000 cán bộ cao cấp tại Hội nghị cán bộ toàn quốc 27-29.2.2012 Nguyễn Phú Trọng đã lên giọng mỉa mai nhạo báng những đại quan đỏ chỉ lo „lợi ích nhóm“ là sắp tới đây các quan giầu và quan nghèo có còn tình đồng chí với nhau không: „Liệu rồi người giầu có nghĩ giống người nghèo không?“ #
Sau khi hạ uy tín của đối thủ trong Bộ chính trị ông Tổng tiến tới bước nữa là tước bớt quyền của ông Thủ bằng cách bắt Nguyễn Tấn Dũng phải trao Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng cho chính mình. Như thế vẫn chưa đủ, trong các cuộc Tự phê bình và phê bình ở Bộ chính trị và Ban bí thư chia làm ba đợt kéo dài 16 ngày từ tháng 7 cho tới đầu tháng 8, Nguyễn Phú Trọng và vây cánh còn trở lại hạch tội Nguyễn Tấn Dũng trong vụ Vinashin, Vinaline –mặc dù việc này trước thềm Đại hội 11 các phe đã tuyên bố xí xóa và tha bổng lẫn cho nhau để cùng chia ghế ăn phần tiếp tục trong Đại hội 11-.# Đồng thời cũng trong Hội nghị này, ông Tổng còn chỉ trích chủ trương gia đình trị của ông Thủ. Việc này chính ông Trọng đã nói rõ trước Hội nghị cán bộ toàn quốc sau ba đợt Tự phê bình và phê bình trong Bộ chính trị và Ban bí thư ngày 13.8 do chính ông chỉ đạo:
„Qua kiểm điểm đã làm rõ hơn, sâu hơn ưu, khuyết điểm và hạn chế của tập thể và các cá nhân trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên một số vấn đề quan trọng cấp bách về xây dựng Đảng (về trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước, nhất là về các vụ việc Vinashin, Vinalines; về thiếu sót, khuyết điểm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XI và công tác cán bộ; về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; về một số dư luận bức xúc liên quan đến cá nhân, gia đình, vợ con“.#
Tuy không nhắc trực tiếp một lần nào tới ông Dũng, nhưng khi nêu ra các vụ Vinashin, Vinaline và „dư luận bức xúc liên quan đến cá nhân, gia đình, vợ con,...“ thì ai cũng biết ông Tổng đã chĩa mũi tấn công thẳng vào cá nhân ông Thủ! Tuy chưa thể loại ngay Nguyễn Tấn Dũng khỏi chức Thủ tướng được với lí do „ kiểm điểm nhưng vẫn bảo đảm công việc thường xuyên, không để ảnh hưởng đến công việc chung, phong trào chung. „#, nên Nguyễn Phú Trọng đã dùng chiến thuật đàn áp tâm lí, khủng bố tinh thần liên tục và đe dọa tương lai chính trị của Nguyễn Tấn Dũng:
„Tổng Bí thư giao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương thẩm tra, xác minh, làm rõ các vấn đề liên quan đến một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị và báo cáo Bộ Chính trị (trong tháng 9/2012) để có kết luận cụ thể.“#
Cũng trong Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 13.8 Nguyễn Phú Trọng còn nói thẳng, đó là những vấn đề gì và liên hệ trách nhiệm trực tiếp tới ai:
„Ủy ban Kiểm tra Trung ương khẩn trương tiến hành thẩm tra, xác minh, làm rõ một số vấn đề mà Bộ Chính trị giao, bảo đảm thật khách quan, đúng nguyên tắc, nghiêm túc, kết luận rõ ràng và báo cáo Bộ Chính trị; đồng thời Bộ Chính trị sẽ nghe Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về kết quả thực hiện chủ trương cơ cấu lại Tập đoàn Vinashin và về vụ việc Vinalines theo ý kiến kết luận của Bộ Chính trị trong quá trình kiểm điểm.“# 
Chỉ một tuần sau các lời hạch hội trên của ông Tổng, một độc thủ nguy hiểm khác đã được thi hành là bắt giam „bầu Kiên“, một tỉ phú được dư luận trong nước từ lâu biết là có liên hệ rất thân thiết với Nguyễn Tấn Dũng và cả con gái của ông là Nguyễn Thanh Phượng, tuy mới đầu 30 tuổi nhưng đã cầm đầu một ngân hàng và nhiều công ti tài chánh thương mại quan trọng khác và giữa tháng 6 đã phải tạm thời rút lui chức Tổng giám đốc một ngân hàng để bớt tai tiếng cho cha! Cũng đúng vào dịp bầu Kiên và Lý Xuân Hải bị bắt thì các nhân vật thân cận của Nguyễn Tấn Dũng là Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình, Tổng Thanh Tra Nhà nước Huỳnh Phong Thanh và Bộ trưởng Tài chánh Vương Đình Huệ đã phải trả lời chất vấn trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình quản lí tài chánh và chống tham nhũng. #
Cũng càng không phải tình cờ, vào đúng dịp này trong lúc Nguyễn Tấn Dũng và vây cánh bị tấn công hoặc bị bắt thì Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước –người đã từng chê ông Dũng bất lực nên tham nhũng đang trở thành „bầy sâu“- đã bồi thêm quả đấm vào mặt ông Thủ. Trong bài “Tương lai đang thúc giục chúng ta viết nên những trang sử mới „ # ông Chủ đã lên giọng dạy dỗ ông Thủ: „chúng ta cũng cần phải biết hổ thẹn với tiền nhân, với những bậc tiên liệt về những yếu kém, khuyết điểm của mình đã cản trở bước đi lên của dân tộc.“ !
Tuy bị tấn công liên hồi từ nhiều phía, nhưng Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa chịu nhượng bộ. Ngược lại ông Dũng đang tìm cách cố thủ và tấn công ngược lại. Chỉ hai ngày sau khi Nguyễn Đức Kiên bị bắt, Nguyễn Tấn Dũng đã mở cuộc họp lần thứ 18 của „Ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng“ và hô hoán là cơ quan công an điều tra đã bắt giam bầu Kiên theo lệnh của Nguyễn Tấn Dũng:
„Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng biểu dương Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an, đã nghiêm túc chấp hành sự chỉ đạo của Chính phủ; đã khởi tố, điều tra để đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật nhằm thâu tóm ngân hàng, gây mất ổn định hoạt động ngân hàng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Công an chỉ đạo khẩn trương điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh theo pháp luật tất cả những người, bất cứ ai có hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng trong cả nước.“#
Với cách hô hoán này ông Thủ không chỉ muốn đánh lạc hướng theo dõi của dư luận mà còn tìm cách chấn an vây cánh, tỏ ra rằng trước sau ta vẫn nắm chủ động và là người cương quyết chống tham nhũng! Không những thế, Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp này còn trình diễn vẫn là người cầm đầu Ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng. Trong thực tế, từ giữa tháng 6.2012 chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng „đã ký ban hành Kết luận (số 21-KL/TW) Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI)“ về „Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí“. Trong đó xác nhận chính thức „ thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban.“# 
Như vậy cho thấy Nguyễn Tấn Dũng đang cố tình chống lại quyết định của Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị trong việc này. Cụ thể là công khai chống lại Nguyễn Phú Trọng! Để bào chữa cho việc này, trong cuộc họp ngày 22.8 nói trên, ông Dũng đã gượng gạo nói là đang chuẩn bị „khẩn trương“# đưa ra Quốc hội dự luật mới về chống tham nhũng vào tháng 10 sắp tới. Ý ông ta muốn nói rằng, cho tới lúc đó ông –chứ không phải Nguyễn Phú Trọng- vẫn là người đứng đầu Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng.
Những sự kiện trên đã chứng minh rằng, cuộc thanh toán chính trị một mất một còn đang diễn ra gay gắt ở cấp chóp bu chế độ toàn trị đã đạt tới cao điểm mới. Chính ông Trọng đã xác nhận và báo trước tình hình này tại Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 13.8 „toàn Đảng đang bước vào thời điểm rất thiêng liêng và hệ trọng, đang làm những công việc rất thiêng liêng và hệ trọng“.# 
Từ đó Nguyễn Phú Trọng còn ra lệnh và đe dọa:
„ Mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm rất lớn đối với đất nước, dân tộc, đối với Đảng, chính vì thế phải phát huy đầy đủ tinh thần trách nhiệm để làm tốt công việc này. Đây là thời điểm phải hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, vững vàng…“ #
Nói tóm lại, các cuộc đấu tranh nhằm khai trừ, thậm chí có thể cả thủ tiêu lẫn nhau đang diễn ra rất gay gắt và tàn bạo ngay trong Bộ chính trị của chế độ toàn trị. Trong đó các bên sẵn sàng sử dụng các thủ đoạn tồi bại nhất để hạ đối thủ. Việc này không xa lạ mà chính là bản chất của các chế độ độc tài toàn trị trước đây, đặc biệt dồn dập và tỏa rộng vào thời kì theo Kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay. Trong Đảng cộng sản Trung quốc cũng đang diễn ra các màn hạ bệ và thanh toán lẫn nhau như mới đây ủy viên Bộ chính trị Bạc Hy Lai bị cách chức kéo đến vợ là Cốc Khai Lai bị ra tòa!
Tự phê bình và phê bình như thế nào, cho ai và để làm gì ?
Các giới trí thức, thanh niên, nông dân, công nhân và cả những đảng viên tiến bộ theo dõi sát tình hình và các biến chuyển trong ĐCS. Mọi người đặt câu hỏi, ba đợt Tự phê bình và phê bình kéo dài 16 ngày từ tháng 7 tới đầu tháng 8 có làm tình hình đất nước thay đổi không? Các vụ bắt giam bầu Kiên, Lý Xuân Hải có phải là, những người có quyền lực của chế độ toàn trị thực tình muốn chống tham nhũng? Các biện pháp hà khắc độc tài, kiểm soát báo chí đã chấm dứt hay đang gia tăng? Các vụ cướp đất của nông dân, cướp cơm của công nhân, đàn áp trí thức sẽ chấm dứt? Các người đang nắm quyền lực đã trở lại dựa vào dân hay vẫn thần phục và quị lụy thế lực bành trướng Bắc kinh? Nhóm cầm đầu đã dám từ bỏ chủ trương tiếp tục dìm VN trong quĩ đạo toàn trị với chủ nghĩa Marx-Lenin làm kim chỉ nam –mặc dầu nó đã chứng tỏ „hoang tưởng chỉ còn như cái xác ướp không hồn“ # - và kinh tế quốc doanh làm chủ đạo? Những người cầm đầu chế độ toàn trị thừa biết rằng, đây mới là những nguồn gốc đang đưa tới độc tài, tham nhũng, bất công, đàn áp, nghèo đói ở VN và dẫn tới sự gia tăng lệ thuộc vào phương Bắc!#
Khi xác nhận phải thực hiện Tự phê bình và phê bình nghiêm túc ở cấp cao nhất trở xuống thì đã minh thị thừa nhận ba điều: 1. Tình hình các mặt từ trong Đảng tới ngoài xã hội đã phát triển đi ngược lại những gì chờ đợi và hiện nó đã đạt tới mức nguy hiểm. 2. Những người ở cấp cao nhất đã vi phạm những sai lầm rất nghiêm trọng trong nhiều lãnh vực 3. Phải thấy rõ những nguyên nhân cội dễ đã đưa tới tình hình nguy hiểm này và phải có can đảm cắt bỏ ngay.
Trong diễn văn rất dài ngày 27.2 Nguyễn Phú Trọng đã nhìn nhận tình hình cực kì nguy hiểm từ trong Đảng tới ngoài xã hội
„Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không? Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.“#
Ông Trọng còn tả chân lối sống, cách cư xử của cán bộ đảng viên có chức có quyền:
„Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc... Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm… ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.“# 
Nếu quả thực trong ba đợt Tự phê bình và phê bình vừa qua các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư đã „thực hiện nghiêm túc, cẩn trọng, chu đáo, chặt chẽ và khoa học“, như Nguyễn Phú Trọng tuyên bố tại Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 13.8 thì ngay sau đó phải diễn ra những thay đổi rõ ràng và nhanh chóng từ trong cách cư xử của Đảng và Nhà nước với nhân dân các giới, tới việc phải từ bỏ những chủ trương và chính sách sai lầm. Nhưng sự chờ đợi chính đáng này đã không diễn ra, mọi việc đang diễn tiến ngược lại trên nhiều lãnh vực quan trọng!
Thật vậy, sai lầm cực kì nguy hiểm trong chính sách hèn với giặc ác với dân vẫn còn được Nguyễn Phú Trọng ra sức bảo vệ. Ngay trước mặt trên 1000 cán bộ cao cấp tại Hội nghị cán bộ toàn quốc cuối tháng 2.2012 Nguyễn Phú Trọng đã gọi nhóm cầm đầu Bắc kinh là „Bạn“# , mặc dù chúng đang thực hiện chính sách thôn tính lãnh thổ và cướp giật tài nguyên cũng như giết hại ngư dân VN. Thái độ cực kì sai lầm và đầy nguy hiểm của người cầm đầu chế độ đã làm tê liệt ý chí cảnh giác và chiến đấu của đảng viên và bộ đội, đánh lạc hướng của bạn bè quốc tế muốn ủng hộ VN. Nguy hiểm nữa là chính các lời tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng đã mở cửa cho Bắc kinh trong các tháng gần đây càng ngang ngược trắng trợn, đẩy mạnh kế hoạch chiếm đóng các hải đảo của VN với việc thiết lập cơ quan hành chánh quận Tam sa và chuyển quân đội tới đồn trú để pháp lí hóa việc chiếm các đảo Hoàng sa và Trường sa của VN; mở rộng bòn rút tài nguyên trên biển của VN bằng cách mở thầu quốc tế để thăm dò và khai thác dầu khí ngay trên các hải phận của VN; đồng thời tiếp tục bắt giữ các tầu đánh cá và ngược đãi ngư dân VN!
Thái độ xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh đã gây lo ngại, bất mãn và phẫn nộ trong nhiều giới. Chính vì thế trong tháng 7 khi các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư tổ chức Tự phê bình và phê bình thì 42 trí thức, chuyên viên và nhân sĩ tên tuổi ở Sài gòn đã viết thư công khai ngày 27.7 cho Bí thư Thành ủy Sài gòn kết án các hành động xâm lấn trắng trợn của Bắc kinh và yêu cầu các cơ quan của thành phố phải tổ chức các buổi hội thảo, biểu tình chống hành động của Bắc kinh và đồng thời để cho những vị này đứng ra tổ chức biểu tình ôn hòa chống những bành trướng ngang ngược của Bắc kinh. Đáng lẽ ra, để chứng tỏ là đang Tự phê bình và phê bình nghiêm túc thì những người cầm đầu chế độ toàn trị phải nhìn nhận chủ trương luồn cúi đã khiến Bắc kinh được đằng chân lân đằng đầu và từ nay quyết tâm từ bỏ đường lối sai lầm này. Khi đó những người cầm đầu chế độ toàn trị phải hưởng ứng lời kêu gọi chân thành của 42 công dân có tên tuổi ở Sài gòn. Ngược lại, họ đã để thành ủy Sài gòn không trả lời chính thức thư kêu gọi nói trên. Mặt khác họ còn để cho công an ép từng người kí tên tới „làm việc“ với mục đích đe dọa, khủng bố tinh thần! #
Cũng trong thời gian đó họ tìm mọi cách ngăn cản các cuộc biểu tình của phụ nữ, thanh niên và trí thức ở Hà nội chống bành trướng của Bắc kinh. Trong các hoạt động này họ còn sử dụng quen thuộc hành động tồi tệ bằng cách cho công an đội lốt côn đồ đánh đập những người đấu tranh tích cực, như LS Lê Quốc Quân „bị côn đồ tấn công“ ngày 19.8, đòi cụ bà Lê Hiền Đức phải lên công an làm việc, gây khó khăn và phạt tiền TS Nguyễn Xuân Diện….#
Trong ba đợt Tự phê bình và phê bình, nếu những người khởi xướng biết thành tâm nhìn nhận những sai lầm thì họ đã dám tuyên bố từ bỏ chủ trương độc quyền của ĐCS và chủ nghĩa Marx-Lenin đã trở thành hoang tưởng và đã bị chính nhân dân nhiều nước CS đứng lên lật đổ! Việc cực kì hệ trọng này Nguyễn Phú Trọng cũng không dám làm. Ngược lại, ông còn vênh váo kiêu ngạo tuyên bố trước Hội nghị cán bộ toàn quốc cuối tháng 2 là: „sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng VN“ và nhấn mạnh thêm „trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy và sau này cũng sẽ như vậy“!#
Thái độ cứ nhắm mắt tiếp tục đi theo con đường mòn đang dẫn đất nước vào ngõ cụt cũng được người cầm đầu chế độ áp dụng trong lãnh vực xây dựng kinh tế. Trong Cương lĩnh chính trị 2011 mà ông Trọng là tác giả đã giữ tiếp tục chủ trương Kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó duy trì sự độc quyền và đặc lợi cho các tập đoàn và tổng công ti nhà nước. Mới đây giữa lúc bắt vây cánh của Nguyễn Tấn Dũng, ngày 22.8 Nguyễn Phú Trọng cho họp „Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương“ để lãnh đạo các tập đoàn và tổng công ti nhà nước phải tới nghe chỉ thị, vì thời gian qua nhiều người trong nhóm này đã chạy theo Nguyễn Tấn Dũng và lơ là công tác Đảng. Ông Trọng đã ra lệnh cho họ phải tăng cường công tác Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện chủ trương „định hướng XHCN“ trong kinh tế!:
“Các cấp ủy Đảng trong Khối cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo, quan hệ với quần chúng... Làm tốt công tác xây dựng Đảng mới bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn con người…”# 
Nguyễn Phú Trọng không dám nhìn thẳng sự thực là, khi cho thực hiện Kinh tế thị trường định hướng XHCN trong cơ chế của một đảng độc tài toàn trị tất yếu dẫn tới tình trạng bóc lột, cá lớn nuốt cá bé, bắt con tép rui thả con cá sộp. Nó là kết quả của chính sách „đổi mới“ từ 1986! Nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn ngoan cố bảo vệ chủ trương này trong Cương lĩnh chính trị 2011. Trong thực tế, nó là chủ nghĩa phong kiến-tư bản không có một vua mà là một nhóm vua tập thể. Nó đang chạy theo đuôi chủ nghĩa tư bản hoang dã thời phôi thai hơn hai thế kỉ trước, trong đó bọn vua chúa và bọn tư bản bóc lột cấu kết với nhau để bảo vệ quyền tiền trên sự bóc lột xương máu, tài sản của nhân dân và đàn áp những người khác chính kiến! Cho nên nông dân đang bị cướp đất, công nhân đang bị cướp cơm và trí thức đang bị đàn áp!
Muốn chống tham nhũng, quan liêu cửa quyền của bọn tham quan thì báo chí phải được tự do, các người cầm bút phải được quyền thông tin, điều tra và phổ biến. Đây là nền tảng trong các xã hội văn minh. Tại VN dưới chế độ toàn trị quyền căn bản này vẫn vắng bóng. Mới đây nhất trong vụ bắt bầu Kiên các báo chí „lề phải“ chỉ được viết tin theo cách „định hướng“ của Ban Tuyên giáo của Đinh Thế Huynh, viết cái gì và như thế nào đều phải tuân lệnh cấp trên. Cuối tháng 8 Bộ Công an mở cuộc „Hội thảo phòng chống „tự diễn biến, „tự chuyển hóa“„ và trong cuộc họp bốn ngày Tự phê bình và phê bình Ban Tuyên giáo cũng chọn đề tài này làm trọng tâm.# Đây không phải là tình cờ, mà nó chỉ phản ảnh tâm trạng lo sợ và tráo trở của bọn tham quan độc tài rất sợ tiếng nói thật và thẳng thắn nhân dân, kể cả những đảng viên còn biết quí tự trọng! 
Tất cả những điều dẫn chứng trên đây nói lên sự thực là, những gì Nguyễn Phú Trọng nói về Tự phê bình và phê bình hoàn toàn khác xa với những gì ông ta đang làm!
***
Nông dân bị cướp đất, công nhân bị cướp cơm, thanh niên bị đầu độc chính trị sai lầm; trí thức, nhà báo và văn nghệ sĩ bị bịt miệng, bịt mắt, bịt tai. Nay họ lại còn đang dở trò Tự phê bình và phê bình để đánh lừa dư luận nhân dân và đảng viên, mong gây lại uy tín. Nhưng qua phong trào Tự phê bình và phê bình lại càng tự chứng tỏ các mâu thuẫn quyền-tiền giữa họ với nhau đang tới cực điểm. Quyền tiền đang làm họ mù lòa và bán rẻ lương tâm, không thấy được lối ra, không còn biết động lòng trước nỗi khổ của nhân dân, không còn biết lắng nghe những cảnh báo chân thành của trí thức và đảng viên tiến bộ về nguy cơ từ phương Bắc. Họ đang phản bội những lời thề của người sáng lập chế độ trước đây 67 năm. Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và vây cánh của họ đã trở thành những người phản cách mạng chỉ vì quyền tiền!
Các sự kiện chính trị dồn dập trong các tháng gần đây xuyên qua các vụ bắt bầu Kiên, Vinashin,Vinaline.. và phong trào Tự phê bình và phê bình ở ngay cấp chóp bu của chế độ toàn trị đã cho thấy, lòng đố kị ghanh ghét giữa những người có quyền lực cao nhất đã tới đỉnh cao mới! Một người thì tham nhũng trắng trợn, cho con gái lập ngân hàng, con trai chọn chỗ béo bở trong chính phủ. Nó chính là hậu quả của chế độ độc đảng với Kinh tế thị trường định hướng XHCN. Còn người kia thì vẫn chủ trương tăng cường chế độ độc đảng, duy trì hệ thống doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo, dù biết thừa chính nó là bà đỡ của tệ trạng tham nhũng, tham quyền và xã hội vô pháp luật như hiện nay! 
Điều này cho thấy, phong trào Tự phê bình và phê bình do Nguyễn Phú Trọng đang phóng tay phát động chỉ cốt đánh phá Nguyễn Tấn Dũng vì chỉ biết ăn mà không biết chia. Chứ tuyệt nhiên Nguyễn Phú Trọng không có thiện ý và quyết tâm từ bỏ những nguồn gốc đang gây nguy hiểm cho VN là chế độ độc tài toàn trị với Kinh tế thị trường định hướng XHCN và cúi đầu trước Bắc kinh !

Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo

Gần đây tôi trở lại cái thói quen hay lẩm nhẩm bài Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi. Ðem đạo nghĩa để thắng hung tàn - Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Ðọc xong bỗng thấy cái xương sống lưng mình đứng thẳng hơn, y như có người kéo cho đầu mình bắt phải ngẩng lên vậy. Hồi còn trẻ tôi dậy học trò môn lịch sử, đã có lúc hành hạ các em nhỏ bằng bài văn này. Khi học đến đoạn Lê Lợi kháng Minh, tôi đố các học sinh, ai học thuộc lòng bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo sẽ được 20 điểm. Không hiểu sao hồi xưa các thầy cô ở nước ta hà tiện, với môn sử, địa điểm tối đa thường chỉ cho tới 15, 16. Cho nên nghe nói 20/20 nhiều em học trò cũng hăng hái chấp nhận lời thách đố của thầy giáo.
Tôi không ngờ, có rất nhiều học sinh hồi đó, những năm 1960 ở Sài Gòn, đã học thuộc lòng bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo, bản dịch rất văn chương chép trong Việt Nam Sử Lược. Tới ngày trả bài, nhiều em xin lên đọc, phải cho các em đọc theo lối tiếp sức. Một em đọc nửa chừng, ông thầy ra hiệu cho một em khác đọc tiếp, rồi trở lại người cũ hay đổi sang người mới, em nào cũng phải sẵn sàng đọc tiếp, tức là phải thuộc lòng cả bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo. Khi chấm dứt, “Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết” thì cả lớp vỗ tay; thầy lẫn trò đều nghẹn ngào. Bởi vì khi cùng nhau đọc và nghe bài đại cáo này, lòng yêu nước thế nào cũng dâng lên, bồi hồi nhớ các tổ tông đời trước!
Một nửa thế kỷ đã qua, bây giờ tôi chắc nhiều học sinh cũ của tôi vẫn còn nhớ bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo, dưới ngòi bút dịch nhuần nhã cao sang của Bùi Kỷ. Nhiều người sau này đã dịch cách khác, có thể đúng, sát nghĩa hơn; nhưng không thể coi là những áng văn chương như bản dịch Bùi Kỷ. Tôi hy vọng các em vẫn còn có thời giờ lâu lâu đọc lại, thưởng thức những lời văn trác tuyệt đó. Chính tôi có những lúc thấy mình đang lẩm nhẩm, “Giang san từ đây mở mặt - Xã tắc từ đây vững nền.” Chợt thấy mình đang đọc, xong rồi lòng ngẩn ngơ.
Cho nên, tôi nảy ra một ý kiến muốn đề nghị với các thầy, các cô giáo, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác. Tại sao chúng ta không tổ chức một ngày giỗ Lê Lợi bằng một buổi đọc Bình Ngô Ðại Cáo? Tháng Tám Âm lịch sắp tới có hai ngày giỗ ai cũng nhớ: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi. Hồi nhỏ, có lần tôi đã được dự lễ ở ngay tại Ðền Vua Lê bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bây giờ đúng là lúc nên cho các bạn trẻ ở nước ta đọc lại Nguyễn Trãi, nhớ lại công ơn Lê Thái Tổ. Nhân ngày giỗ vua Lê, học sinh tiểu học, trung học tất cả các làng, các tỉnh, khắp nước Việt Nam hẹn nhau một giờ cùng tụng đọc bài Bình Ngô Ðại Cáo. Các em không cần học thuộc lòng, cứ cầm bản văn đọc dõng dạc trang nghiêm cũng quý lắm rồi. Chắc tổ chức ở trong trường thì không ai gọi là biểu tình. Không cần phải xin phép xin tắc gì cả. Ở nước ngoài thì càng dễ tổ chức hơn nữa. Ðọc trong chùa, trong nhà thờ càng thêm nghiêm trang.
Nhiều người sẽ phản đối, vì sợ các em học sinh không hiểu hết được cả bài Bình Ngô Ðại Cáo. Chuyện đó tự nhiên; nhưng không hiểu thì phải học cho hiểu. Bố mẹ, thầy cô phải học trước cho rõ nghĩa từng câu, rồi giảng lại cho các em hiểu. Không nên lười, không nên ngại khó. Cái công mình học cho hiểu nghĩa bài Bình Ngô Ðại Cáo không khó nhọc bằng công các cụ Lê Lợi, Nguyễn Trãi đời xưa đánh giặc Minh suốt 10 năm đâu!
Có người còn than phiền là bài văn này, ngay cả bản dịch ra tiếng Việt của Bùi Kỷ, cũng có nhiều chữ Hán quá. Như vậy có gì mâu thuẫn không? Một bản văn nêu cao ý chí cương cường của dân Ðại Việt chống lại cuộc xâm lăng và âm mưu Hán hóa của vua chúa bên Tàu, không lẽ mình lại cứ sử dụng đầy chữ Hán như thế? “Nhật nguyệt hối rồi lại minh - Càn khôn bĩ rồi lại thái!” Sao không nói ra tiếng Việt ròng cho chúng cháu nhờ!
Xin nhắc: Những chữ đó đều thuộc vào tiếng Việt từ lâu rồi. Ông anh tôi tên là Nhật, cô em tên là Nguyệt, bộ tưởng họ người Trung Quốc hay sao? Nói đến “Càn Khôn” mà e ngại là mình ăn phải đũa người Trung Hoa, thế thì không nghe bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương nói, “Miệng túi càn khôn thắt lại rồi;” nghe mà cười khúc khích với nhau hay sao? Nếu không chịu học thì làm sao biết mà cười? Những chữ đó, chúng không có quốc tịch. Ở bên Trung Quốc nó là chữ Tàu; qua biển sang Nhật nó thành tiếng Nhật; sang đến nước ta nó là tiếng Hán Việt. Ai nuôi nó thì nó thành đứa con ngoan ngoãn cho mình sai bảo. Còn ai từ chối nó thì nó đi mất luôn. Thế khi mình đi biểu tình, hô to, “Ðả đảo Trung Quốc xâm lược” thì mình đang nói tiếng gì đây? Cả sáu chữ được hô lên đều là gốc Hán, là con nuôi cả! Tổ tiên chúng ta đã gom chúng lại, nuôi nấng chắt chiu được mấy chục ngàn tiếng mới, gọi là tiếng Hán Việt, truyền lại cho con cháu xài trong cả ngàn năm. Bây giờ tính đem đổ xuống sông xuống biển hết hay sao?
Có người lớn cái đầu, 40, 50 tuổi mà vẫn cứ e ngại, bảo rằng mình rất khâm phục con người Nguyễn Công Trứ, nhưng không thể đọc thơ ông được. Vì trong đó toàn chữ Hán. Ðọc lên tưởng như mình hóa thành người Trung Hoa!
Người nói câu đó rõ ràng là thời còn ít tuổi đã mất cơ hội học đến nơi đến chốn. Cho nên khi lớn lên, không muốn học, sợ khó. Mà đó chỉ là học có mấy chục chữ Hán Việt trong một bài thơ, mà đã sợ khó rồi. Bèn tự trừng phạt, không cho mình đọc thơ Nguyễn Công Trứ nữa. Mà thực sự, có ai bắt chúng ta phải học chữ Hán đâu. Chỉ cần nghe đọc lên thì hiểu cái tiếng gốc chữ Hán ý nghĩa thế nào thôi. Người Trung Hoa viết thế nào, không cần biết. Hãy tưởng tượng một học sinh người Nhật phải học chữ Hán thế nào thì thấy việc học thơ cổ của mình dễ ợt. Nước Nhật chưa bị người Trung Hoa đô hộ ngày nào, nhưng trong ngôn ngữ họ bắt cóc đem chữ Hán về nuôi và dùng, đông đúc cũng bằng một nửa số chữ thông dụng.
Một người Nhật biết chữ có nghĩa là phải biết vài ngàn chữ Hán. Nhìn chữ người Hoa viết thế nào phải đọc lên được, hiểu được nghĩa. Mệt nhất là phải biết cách viết chữ đó, viết đúng thứ tự, có 10 nét thì nét nào viết trước, nét nào viết sau. Ở nước Nhật 99% dân biết chữ. Một học sinh qua bậc tiểu học phải biết mấy trăm chữ, học hết trung học phải biết mấy ngàn chữ, tất cả được quy định trong chương trình giáo dục. Nếu không học thì lớn lên cầm tờ báo không đọc được!
Nghĩ đến công khó nhọc của các học sinh Nhật thì phải thấy mình học thêm một chút để hiểu bài Bình Ngô Ðại Cáo là việc dễ như không. Cả nước cùng học lại, cùng hiểu nghĩa bài Bình Ngô Ðại Cáo thì 90 triệu trái tim cùng đập theo một nhịp. Ðến nước sông Hồng cũng phải sôi lên đỏ rực, nước Cửu Long cũng phải cuồn cuộn dâng trào.
Ước mong quý vị nhà giáo đồng nghiệp của tôi sẽ để ý tới đề nghị này. Ước mong ngày Giỗ Vua Lê năm nay cả nước sẽ cùng đập trống, gõ mõ, đọc Bình Ngô Ðại Cáo theo nhịp của trái tim mình. Sẽ cùng nhau đọc: “Nền vạn thế xây nên chăn-chắn - Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu!” Rồi quyết tâm cùng nhau làm sao đừng để cho con cháu bị mắc một mối nhục ngàn thu!

Thursday, August 30, 2012

2 Chuyến xe hoa sắp đến với Mary Huỳnh Thục Vy và Monica Trịnh Kim Tiến

Trịnh Kim Tiến: Chúa trong tôi


Monica Trịnh Kim Tiến và vị hôn phu của cô là anh Paul Thành Nguyễn. Hôn lễ của cô và anh Paul Thành Nguyễn sẽ đuợc tổ chức tại nhà thờ Kỳ Đồng Sài Gòn trong chúa nhật 26 tháng 8, 2012 sắp đến


Ảnh chụp cô Trịnh Kim Tiến trong cuộc biểu tình chống Trung Cộng tại Hà Nội tháng 7 năm 2011. Cô là con gái ông Trịnh Xuân Tùng bị công an VC đánh chết trước đấy.


Sài Gòn - Trước đây tôi không hề tin có Chúa.

Với những hiểu biết ít ỏi và nông cạn của mình, thậm chí cách đây 2 năm tôi không hề biết đến Đạo Thiên Chúa. Một phần do tôi không để ý và một phần do gia đình tôi chỉ thờ tổ tiên ông bà. Tôi rất mê mẩn với những chuyện tâm linh và cũng là một người khá mê tín nhưng tôi không tin có Chúa. Tôi nhớ là lần đâu tiên tôi biết về Người là thông qua một người bạn học cao đẳng cùng tôi. Bạn đó có Đạo và gia đình bạn là Đạo Công giáo gốc.

Tôi cảm thấy thật phiền phức và rắc rối nếu mỗi tuần phải đến nhà thờ. Trước những lời xuyên tạc mà tôi nghe người ta nói về Đạo công giáo, tôi cảm thấy không thích những người Công giáo. Họ không được thờ lậy cha mẹ, không được cúng giỗ tổ tiên mà chỉ thờ lạy Chúa. Tôi cảm thấy như vậy thì thật không nên. Họ có cái nước bùa gì đó mà khi uống vào, ăn vào con người ta bị thôi miên, mê mẩn và tôn sùng Đạo mà quên mất chính thân mình… Đó là những điều mà tôi nghe được trước khi tôi biết về Chúa.

Sau khi biến cố gia đình xảy đến, tôi hụt hẫng và hoang mang. Cùng lúc đó, trong số đông những người quan tâm đến hoàn cảnh của gia đình tôi có các Cha và nhiều giáo dân Công giáo. Tôi thấy thật là lạ, tôi đã nghe rất nhiều điều không tốt về những người này, về Đạo này, nhưng khi tiếp xúc với họ tôi thấy họ đâu có xấu. Tôi thấy họ cũng như tôi, như mọi người, từ một số người tôi biết còn cảm nhận được sự chân thành, tốt bụng và thân thiện.

Rồi thì tôi hiếu kỳ, tôi tìm hiểu và tôi đang sắp trở thành con của Người. “Không phải anh em chọn Thầy mà chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15, 16), đúng vậy, chính Chúa đã chọn tôi làm con của Người. Câu nói này đến bây giờ, sau khi trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, tôi mới hiểu được hết ý nghĩa của nó. Thật là khó nói hết ra những điều kỳ diệu mà Chúa đã mang đến cho tôi, thật sự nó rất huyền bí.

Nhưng cũng không phải tôi chưa bao giờ khước từ Chúa. Tôi đã chối bỏ Người rất nhiều lần, hết lần này tới lần khác, nhưng Người vẫn bao dung tôi, Người tha thứ và lại đón nhận tôi về bên Người.

Khi tôi cảm giác thấy Người đang đến gần tôi, tôi đã cố gắng để giả như không có điều đó, tôi phủ nhận Người có mặt nơi tôi. Tại vì tôi hốt hoảng và chưa thể tiếp nhận khi Chúa chọn mình. Tôi nói với những người bạn của mình, tôi học Đạo để hiểu thêm về Đạo nhưng tôi sẽ không theo Đạo. Tôi đã từng quả quyết và chắc chắn như vậy đấy. Mỗi tiết đến giờ học giáo lý hay mỗi khi tôi đi nhà thờ, cơn buồn ngủ của tôi lại tìm đến, tôi rất cố gắng để chiến thắng nó và nghe lời cha giảng. Trong khoảng thời gian đó liên tục xảy ra những việc khiến việc học Đạo của tôi bị ngắt quãng, có lẽ đó là những thử thách mà Chúa muốn tôi trải qua.

Tôi đã được học và tôi được hiểu, tôi đã nhận ra những điều tôi được nghe trước đây là những điều dối trá, là sự xuyên tạc và xúc phạm Chúa. Một trong 10 điều răn lớn của Chúa với các con chiên của Người là phải thảo kính với cha mẹ, ai nói người theo Đạo Công giáo là phải từ bỏ cha mẹ, tổ tiên của họ? Thậm chí họ còn có thể ngày ngày, hàng tuần hướng đến và cầu nguyện cho những người thân yêu của họ khi họ cùng tham gia nghi thức phụng vụ Chúa vào ngày Chúa Nhật. Còn thứ mà người ta cho là bùa mê đó, chính là Mình Máu Thánh, thứ mà một người con của Chúa khao khát được rước. Đâu phải ai cũng có thể được rước mà cho rằng đó là bùa chú con người ta. Mình Máu Chúa chỉ dành cho những ai tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Người.

Có rất nhiều cơ duyên để tôi gặp được những người bạn tốt, truyền cho tôi Đức tin và sự hiểu biết. Một cô bé kém tôi một tuổi, một người bạn, con của Chúa nói với tôi rằng: “Đạo Thiên Chúa không dạy gì ngoài tình yêu thương, điều mà Chúa mong muốn chỉ là hãy biết cách sống yêu thương nhau”. Tôi cứ nhớ mãi những lời cô bé nói. Còn một người bạn khác thì thủ thỉ vào tai tôi “Chúa nói với chị Chúa rất yêu thương em”. Tôi hạnh phúc biết bao khi nghe những lời đó.

Nhưng tôi đến với Chúa không bởi những điều người ta nói với tôi. Tôi đến với Chúa vì Người đã chọn tôi. Tôi đã thấy Người những khi tôi đau khổ, những khi tôi yếu đuối. Có khi ngồi trước linh ảnh, nhìn thấy những vết thương trên thân thể Người, nhớ về những điều tôi đã và đang trải qua, tôi khựng lại, trái tim tôi nhói lên và đau buốt.

Và bây giờ:

Tôi không thể sống tốt mà không có tình yêu thương của Chúa.

Mônica Trịnh Kim Tiến

Mưa lớn, đường lại biến thành “sông”

Nhiều tuyến đường trên địa bàn TP.HCM lại rơi vào tình trạng ngập nặng sau cơn mưa lớn xảy ra vào chiều 22/8. Nhiều người dân lại một phen quay cuồng trong “biển nước”.





Nước ngập khắp nơi

2/9/2012 nghĩ về ngày 2/9/1945

Việt Nam 67 năm sau ngày độc lập đầu tiên trong đời thì người dân đã có “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” như Tuyên Ngôn ngày 2 tháng 9 năm 1945 xác quyết chưa hay ngày nay các quyền này vẫn là thứ “xin-cho” độc quyền của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN)?
Ngược dòng lịch sử, kể từ lúc 2 giờ chiều ngày 2/9/1945 khi Hồ Chí Minh, trong tư cách Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bước lên khán đài ở Công trường Ba Đình đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, không người Việt Nam nào khi ấy ngờ rằng, cũng chính họ Hồ và đảng CSVN sẽ đưa đất nước và con người Việt Nam vào vòng điêu linh trong 30 năm chiến tranh sau đó.
Khi họ Hồ mượn những những lời văn bia đá của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ ngày 4 tháng 7 năm 1776 để ghi vào Tuyên ngôn của mình với lời khẳng định đó cũng là những quyền tự nhiên mà dân tộc Việt Nam có quyền được hưởng thì Hồ Chí Minh có biết rằng cũng chính ông ta và đảng CSVN đã lên kế họach sẽ tước đọat tất cả các quyền đó của dân khi lên cầm quyền ?
Ngày ấy Hồ Chí Minh nói : “Hỡi đồng bào cả nước, 

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". (We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.— U.S. Declaration Of Independence,1776)
Họ Hồ còn diễn giải thêm rằng : “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.” 
Nhưng ông Hồ không chỉ mượn Tuyên ngô độc lập của Mỹ mà còn dựa cả vào Bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp để nói với tòan dân khi ấy rằng : “Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. 

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”
Nhưng kể từ sau ngày 2/9/1945 cho đến 30/4/1975, người dân sống trong chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam từ biên giới Việt Nam-Trung Hoa xuống vỹ tuyến 17 chia đôi Việt Nam, sau Hiệp định Geneve năm 1954, chưa hề được hưởng các “quyền tự do” và được sống “hạnh phúc” theo ý muốn của mình, nói chi đến quyền được “bình đẳng” trong xã hội, hay quyền được “tự quyết” lấy tương lai chính trị của đất nước, hoặc chọn người lãnh đạo Quốc gia ?
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân đều do đảng quyết định và chỉ huy. Người dân từ lúc sinh ra và lớn lên cho đến khi thành con người biết sống theo lẽ tự nhiên đều phải làm theo lệnh đảng, kể cả niềm tin vào tôn giáo cũng bị chỉ huy và bị hạn chế đến mức nhiều người phải bỏ đạo vì thiếu nơi thờ phượng, hoặc không có lãnh đạo tinh thần. 
Vì vậy tuy “vô thần” là tiêu chuẩn không viết thành văn nhưng lại là một “ưu điểm ngầm” để cho một công dân dễ dàng được chế độ ưu đãi hơn một người có tín ngưỡng và công khai tuyên xưng tôn giáo của mình.
Bằng chứng này đã thấy trong lịch sử cầm quyền của đảng CSVN, tiêu biểu như số trên 90 phần trăm của thành phần 500 Đại biểu Quốc hội khóa 13 và 200 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN Khóa XI được chọn trong năm 2011 là những người có lý lịch “không tôn giáo”. Đấy là chưa kể đến số phần trăm tương tự trong số 3 triệu rưỡi đảng viên.
SAU 30-4-1975
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân đội miền Bắc, được khối Cộng sản Nga-Hoa giúp súng đạn chiếm miền Nam từ tay Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, sau 20 năm nội chiến để “thu cả nước về một mối” thì sự mất hết “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" đã lan ra cả nước.
Bằng chứng hiển nhiên đã đến với phe bại trận người dân miền Nam. Tất cả những quyền tự do mà họ được hưởng dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã bị “chính quyền cách mạng” tước bỏ.
Hậu qủa là lầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã có trên 1 triệu người dân miền Nam phải bỏ nước ra đi để tìm “quyền được sống”, “quyền tự do” và được “mưu cầu hạnh phúc” tại 92 nước trên thế giới.
Sau 10 năm sống với chế độ tem phiếu từ 1975 đến 1985, nền kinh tế trù phú miền Nam trước 1975 đã bị san bằng với chế độ kinh tế trung ương tập quyền và bao cấp phá sản của miền Bắc Xã hội chủ nghĩa khiến tòan dân kiệt quệ.
Tình trạng “bất bình đẳng”, nạn “kỳ thị Nam-Bắc”, “đối xử bất công giữa kẻ thắng và người thua trận” được chế độ mới nuôi dưỡng, khuyến khích đã tạo ra sự thù hận trong xã hội là hậu qủa của tình trạng bất “bình đẳng về quyền lợi” giữa người của chế độ và dân chế độ cũ. 
Hậu qủa xẩy ra là tình trạng mất đòan kết giữa nhân dân và chính quyền và giữa người dân với nhau làm đảo lộn xã hội với số chênh lệch giầu-nghèo và sai biệt lợi tức đầu người giữa thành phố và thôn quê cách nhau từ 40 đến 90 phần trăm.
Do đó, khi Hồ Chí Minh mượn lời của Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để tuyên dương “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” thì chắc khi ấy họ Hồ không bao giờ dám nghĩ đến cái ngày chính đảng do mình lập ra sẽ là thủ phạm của bản án lịch sử Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc từ 1953 đến 1956 và tình trạng bất công trong xã hội như đã xẩy ra trong các vụ cưỡng chế tài sản, đất đai, ruộng vườn của dân trên cả nước trong thập niên đầu của Thế ký 21.
Ngòai những bất công và bất bình đẳng đi ngược lại Tuyên Ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, người dân còn bị bọn cán bộ cường hào, nhất là những kẻ có chức có quyền bóc lột, kìm kẹp, tống tiền, ăn chận.
Hậu qủa nhãn tiền đã được phơi bầy trong muôn mặt của tệ nạn tham nhũng mỗi ngày một nghiêm trọng không giải quyết nổi trong guồng máy cai trị của đảng CSVN.
Tệ nạn tham nhũng đã biến thành “quốc nạn” từ Khóa đảng VII thời Đỗ Mười làm Tổng Bí Thư. Mười chuyển sang cho Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu của Khóa đảng VIII, rồi Phiệu lại sang tay cho Nông Đức Mạnh tiếp tục chống trong hai khoá đảng IX và X, nhưng cũng bó tay.
Sau đó đến lượt Nguyễn Phú Trọng, khóa đảng XI tiếp tục ra tay tiễu trừ tham nhũng từ năm 2011 nhưng xem ra tham nhũng tiếp tục cười vào mũi đảng dù đã có thêm Nghị quyết 4 về “Một số nội dung cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ngày 31/12/2011 và Nghị quyết 5 ngày 15-5-2012 nói về công tác phòng, chống tham nhũng.
Bởi vì, theo lời đảng, kể từ Nghị quyết Trung ương 3 của Khóa đảng X năm 1006 đề ra công tác phòng, chống tham nhũng thì : 
“Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành , nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp..., gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.” (Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 ngày 18/6/2012)
Do đó một chiến dịch kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã được phát động trong tòan đảng từ tháng 6/2012 với hy vọng dẹp bớt tham nhũng để giữ vững tư tưởng đảng viên cho khỏi lâm vào bệnh “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang đe dọa sự sống còn của đảng.
Nhưng nếu người dân Việt Nam chưa có “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” như giấc mơ của Hồ Chí Minh ghi trong Tuyên ngộc Độc lập ngày 2/9/1945 thì không hy vọng gì đảng có được sự tiếp tay của người dân trong công tác chống tham nhũng và xây dựng đảng.
Ấy là chưa vội nói đến “cơn hồng thủy” của các “nhóm lợi ích” , hay còn được gọi là “lợi ích nhóm” đã tràn ngập hệ thống cai trị từ năm 2011.
Tác gỉa Ngô Minh Giang đã cảnh giác tình trạng này trên báo điện tử Xây Dựng Đảng ngày 28/8/2012: “Thời gian gần đây, nhiều loại tệ nạn tiêu cực phát triển nghiêm trọng và lan rộng, tính chất ngày càng phức tạp, thủ đoạn và hành động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong đó xuất hiện những nhóm lợi ích. Đó là tập hợp một nhóm người cùng “chí hướng” vì lợi ích cá nhân ích kỷ, cục bộ với phương thức hoạt động chủ yếu là tìm cách tác động lên chính quyền, khai thác, lợi dụng, lách những kẽ hở luật pháp.”
Nhưng các nhóm này ở đâu ra và hoạt động ra sao ?
Ông Giang trả lời : “Nhóm lợi ích được hình thành trên cơ sở các liên minh bất hợp pháp. Trong các nhóm này không thể thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước đã thoái hoá, biến chất, thậm chí họ có thể là những “sáng lập viên” của nhóm. Các nhóm và thành viên của nhóm không bao giờ lộ mặt công khai, chính thức. Phương châm hoạt động của các nhóm bí mật, khép kín, giấu mình, lẩn tránh sự kiểm tra, giám sát của kỷ luật đảng, luật pháp nhà nước. Nội dung hoạt động của nhóm là kết hợp để thu vén lợi ích, ràng buộc và khống chế lẫn nhau, khi lợi ích bị xâm hại, có nguy cơ phát lộ sẵn sàng vô hiệu hoá, thủ tiêu lẫn nhau để bịt đầu mối.

Nhóm lợi ích là một biến thể của chủ nghĩa cá nhân phát triển đến mức độ cao khiến tham nhũng phát triển sâu rộng, tính chất ngày càng phức tạp, trở thành nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng, của chế độ, tương lai của đất nước. Nó là “giặc nội xâm” trong lòng Đảng ta, chế độ ta….Nhóm lợi ích là một dạng maphia. Số cán bộ đảng, nhà nước thoái hoá, biến chất hợp tác với "đại gia", dựa vào nhau “ông mất của kia, bà chìa của nọ” để thu vén lợi ích cá nhân. Có nhóm lợi ích chính trị, nhóm lợi ích kinh tế, nó phát triển từ cấp cao đến cơ sở.” 
Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cũng đã có lần cảnh giác nguy cơ đối với đảng do các “nhóm lợi ích” trong nội bộ đảng gây ra, nhưng chưa thấy có nhóm nào và phe nào bị phanh phui.
Trong khi đó, báo Quân đội Nhân dân còn viết : “Lợi ích nhóm ở nước ta có quy mô hết sức đa dạng, nhỏ thì người này với người kia, bộ phận này với bộ phận kia, lớn thì ngành này với ngành khác liên kết với nhau “lách luật” làm méo mó, bẻ cong đường lối, chính sách của Đảng để trục lợi. Đây chính là một hình thức tham nhũng tập thể, được biểu hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau như báo cáo không trung thực, chạy dự án, chạy chức, chạy quyền, chạy chính sách… Khi đạt được lợi ích riêng của cá nhân, của bộ phận thì lợi ích chung, của đất nước, của nhân dân bị xâm hại. Thế mới có chuyện doanh thu của doanh nghiệp lỗ, lương vẫn cao, thưởng vẫn lớn. Những ngày vừa qua, thanh tra công bố số nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng lên tới 202 nghìn tỷ đồng (8,6%), con số đó cao gần gấp đôi so với con số do các ngân hàng thương mại báo cáo trước đó. Vì sao lại báo cáo thấp hơn con số thực? Báo cáo thấp để vẫn được hưởng lương cao, vẫn thưởng và giảm bớt được quỹ dự phòng rủi ro. Thanh tra còn cho biết, nợ xấu ngoài nguyên nhân khách quan do khủng hoảng kinh tế trên quy mô toàn cầu, còn do ngân hàng đổ tiền vào bất động sản, chứng khoán, mà không ít trong số đó chính là doanh nghiệp sân sau của các ngân hàng... Nghĩa là, cũng xuất phát từ lợi ích nhóm".(Huy Thiêm, báo Quân đội Nhân dân, 15-7-2012)
Như vậy nguy cơ thì đã thấy rõ vì các “nhóm lợi ích” đang tạo ra sự “bất bình đẳng” trong xã hội, gây mất ổn định trong cuộc sống của người dân và rất có khả năng làm xáo trộn hệ thống cầm quyền và làm vô hiệu hóa Nghị quyết Trung ương 4.
Có nhiều lý do sản sinh ra các phe nhóm lợi ích trong đảng, nhưng nguyên nhân cốt lõi là từ câu “nhân nào thì sinh ra qủa ấy”. Nếu lãnh đạo trong sạch, thượng tầng mà liêm chính thì hạ cấp làm sao dám loạn ?
Chung quy lại cũng chỉ vì người dân Việt Nam chưa được hưởng đầy đủ các quyền tự do như hy vọng của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 và như Hiến pháp đã quy định nên dân không được quyền tham gia việc nước để giúp chính phủ giải quyết những khó khăn.
Nếu đảng CSVN biết tôn trọng quyền làm chủ đất nước của người dân và trả lại dân quyền tự quyết định vận mạng đất ước thì mọi việc sẽ được giải quyết nhanh chóng bởi một Nhà nước dân chủ biết thượng tôn luật pháp, thay vì một Chính quyền của một đảng độc tôn và độc tài đang bị xỏ mũi lôi đi bởi các “nhóm lợi ích”.
Vì vậy tuy Tuyên ngôn đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do”, nhưng đảng cầm quyền lại nắm trong tay trọn quyền “xin-cho” nên người dân “chưa hề có tự do” như nhà nước nói.
Đấy chính là sự khác biệt giữa 2 ngày 2/9 của khoảng cách 67 năm từ 1945 đến 2012

Không được cấm quyền yêu nước

Lâu nay, ở Việt Nam những người bày tỏ ý kiến về âm mưu chính quyền Trung Quốc thao túng và chèn ép nước ta là các nhà trí thức, nhà báo, văn nghệ sĩ và các sinh viên. Bữa qua mới được thấy ý kiến của một người thuộc giới kinh doanh.
Ðó là ông ông Lê Hùng Dũng, chủ tịch Hội Ðồng Quản Trị ngân hàng Eximbank. Trước đây mạng Quan Làm Báo mới tung tin đồn là ông đang bị quản thúc, sau vụ bắt Bầu Kiên.
Ðược đài RFI phỏng vấn, ông Lê Hùng Dũng cải chính ông bị bắt, nói rằng: “Theo nhận định cá nhân tôi thì cái mạng Quan Làm Báo này là của Trung Quốc. Mà người Trung Quốc - một số người Trung Quốc - thì họ rất không muốn Việt Nam ổn định.” Ông giải thích thêm “...người ta tung tin đó ra với mục đích gì? Ðể làm cho Eximbank nói riêng suy yếu, và hệ thống ngân hàng Việt Nam suy yếu,... Họ muốn đánh một đòn vào trong hệ thống tiền tệ Việt Nam để tài chính Việt Nam suy yếu, và họ có cơ hội để họ tiến lên, giống như là họ đang lấn chiếm Hoàng Sa với Trường Sa của chúng ta!”
Phải hoan nghênh tiếng nói mới, tiếng nói đầu tiên của giới kinh doanh góp vào làn sóng dư luận những người yêu nước phản đối Cộng sản Trung Quốc. Chúng ta không biết “nhận định cá nhân” của ông Dũng về nguồn gốc mạng Quan Làm Báo có đúng hay không; nhiều người đã biết mạng này có xuất xứ từ Hồng Kông hay Singapore. Dù ông Dũng nói đúng hay sai thì ông cũng xác định một sự thật là Trung Cộng đang âm mưu phá hoại mọi thứ ở nước ta, trong đó có hệ thống tài chánh, ngân hàng. Khi nói, “giống như họ đang lấn chiếm Hoàng Sa với Trường Sa của chúng ta,” ông Dũng công nhận nước Việt Nam đang bị nước láng giềng đe dọa. Ðây là tiếng nói của một người thuộc giới quản trị cao cấp về tài chánh, cho nên có sức mạnh, chứng minh làn sóng chống Trung Cộng trong dư luận phổ cập mọi lớp người. Ðảng Cộng sản Việt Nam không thể vu cáo cho các người đi biểu tình chống Trung Quốc là thuộc thành phần cực đoan nữa.
Nhưng không phải Trung Cộng chỉ nhắm phá hoại hệ thống ngân hàng và tài chánh nước ta. Ðiều mà họ mong đạt được là xóa bỏ tất cả mọi sức đề kháng của dân Việt. Họ muốn ngăn cấm, dẹp bỏ tất cả những ý kiến bất lợi cho họ, không cho phép ai được lên tiếng. Vì vậy, mỗi lần có biểu tình chống Trung Cộng là những người tham dự vẫn bị ngăn cản ngay từ trước khi họ bước ra khỏi nhà. Những người lễ phép làm đơn xin tổ chức biểu tình thì đơn xin phép bị coi như tờ giấy lộn. Tóm lại, Cộng sản Trung Quốc muốn người Việt Nam không được bày tỏ lòng yêu nước, nếu yêu nước nghĩa là chống âm mưu xâm lấn của của Bắc Kinh.
Nhưng ngay trong nước họ, Cộng sản Trung Quốc cũng không ngăn cản được các thanh niên khi họ muốn bày tỏ lòng ái quốc, phản đối chính phủ Nhật Bản về quần đảo Ðiếu Ngư, mà người Nhật đang chiếm đóng, gọi tên là Senkaku. Ngày hôm qua, có thanh niên Trung Hoa đã định tấn công Ðại Sứ Nhật Bản Uichiro Niwa, sấn tới xé lá quốc kỳ Nhật Bản trên xe ông đại sứ. Tình trạng căng thẳng giữa hai nước bắt đầu trong Tháng Tám này vì một nhóm người Trung Hoa từ Hồng Kông tổ chức lái một chiếc thuyền tới đảo Senkaku để phản đối ông thị trưởng Tokyo. Ông Shintaro Ishihara đã đưa kế hoạch mua hòn đảo lớn ở đó cho thành phố, quyền sở hữu hiện thuộc một tư nhân người Nhật. Ông trù tính đưa một phái đoàn ra thăm “đất” trước khi hội đồng thành phố chấp nhận việc mua bán. Thực ra các đảo Ðiếu Ngư nhỏ chưa bằng một khu phố, mà chung quanh cũng chỉ giầu về hải sản chứ chưa có dấu vết dầu, khí nào cả. Hai nước tranh chấp với nhau hoàn toàn vì danh dự, thể diện và chủ quyền quốc gia.
Ông Ishihara có thể chỉ đưa ra dự án này với mục đích tranh cử trong kỳ tới. Nhưng ông đã chọc giận người dân Trung Quốc; với dự tính “thay đổi quy chế pháp lý” của mảnh đất đang tranh chấp. Hành động của ông Ishihara cũng chưa khiêu khích dân Trung Quốc bằng việc khánh thành trụ sở xã Tam Sa của chính quyền Trung Quốc gần đây. Xưa nay, khi hai nước còn tranh chấp chủ quyền trên một miền đất nào thì các chính phủ liên can đều không thay đổi tình trạng vùng đất đang tranh chấp, để giữ hòa bình. Nhóm thanh niên Hồng Kông đã xung phong bày tỏ thái độ, tổ chức chuyến đi Senkaku, mặc dù biết khi tới đó thì Hải Quân Nhật đã chờ sẵn, bắt giữ. Trong nhóm thanh niên này có những người ủng hộ cũng như có người thuộc các tổ chức chính trị chống đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày Thứ Hai vừa qua, họ được trả tự do về đến Hồng Kông, và được chính quyền cùng dân chúng đón tiếp như những anh hùng! Cùng ngày đó, đám thanh niên này đạt được mục đích của họ: Chính phủ Nhật Bản tuyên bố không chấp nhận cho thủ đô Tokyo mua hòn đảo!
Trung Cộng không thích hành động của nhóm thanh niên Hồng Kông. Vì hiện nay họ đang muốn không gây sóng gió nào về ngoại giao, trong lúc cả đảng lo chuẩn bị đại hội chuyển giao quyền hành cho lớp lãnh tụ mới. Cộng sản Trung Quốc cũng đang lo theo dõi dân để đối phó với vụ án bà Cốc Khai Lai, vợ viên bí thư Trùng Khánh, bị lên án tử hình treo về tội giết người. Dân chúng biết đây không phải là mọt vụ án sát nhân bình thường, mà đằng sau là cả mạng lưới tham nhũng tranh quyền từ cấp cao nhất trong đảng đang thối rữa.
Nhưng Trung Cộng không ngăn được đám thanh niên Trung Hoa phẫn nộ muốn bày tỏ lòng yêu nước. Ngay sau khi Nhật Bản bắt các thanh niên Hồng Kông, đã có hơn 10 cuộc biểu tình tại các thành phố lớn. Ðây là phong trào biểu tình chống Nhật lớn nhất kể từ năm 2005. Tại Thẩm Quyến, thành phố nằm bên cạnh Hồng Kông, người biểu tính đã phá một tiệm ăn Nhật Bản. Những chiếc xe hơi nhãn Nhật Bản cũng bị tấn công, dù chủ nhân là người Trung Hoa; trong đó có một chiếc xe của cảnh sát bị lật nghiêng. Cuộc biểu tình lớn nhất diễn ra tại Thành Ðô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, hàng ngàn người diễn hành qua trung tâm thành phố khiến một cửa hàng bách hóa lớn của người Nhật phải đóng cửa.
Người Việt Nam cũng phải đòi được quyền bày tỏ lòng yêu nước. Thanh niên Việt Nam không thể chịu thua kém giới trẻ Trung Hoa trong nước họ. Người Trung Hoa có quyền phẫn nộ khi Nhật Bản tiếp tục cai quản những hòn đảo mà đế quốc Nhật mới chiếm lấy từ cuối thế kỷ 19. Họ phải bày tỏ niềm phẫn uất, nếu không thì nhục nhã. Người Việt Nam cũng có quyền phẫn nộ khi Cộng sản Trung Quốc thay đổi cả hệ thống hành chánh trên quần đảo Hoàng Sa và một số đảo thuộc Trường Sa, với việc khánh thành trụ sở và giới thiệu xã trưởng thị xã Tam Sa. Nếu không, cũng là ngậm câm chịu sỉ nhục.
Dân Việt Nam đang nhìn rõ mối dã tâm của Cộng sản Trung Quốc tìm cách lấn áp nước ta về đủ mọi mặt. Ông Lê Hùng Dũng, chủ tịch Eximbank chỉ nói lên một sự thật. Ðến lúc những người khác có địa vị quan trọng trong xã hội Việt Nam cũng phải nói lên sự thật đó. Không thể bắt cả nước phải ngậm miệng nuốt nhục, chỉ vì đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận chịu lệ thuộc vào các đồng chí Trung Hoa của họ.
Trong ngày 19 Tháng Tám, khi các sinh viên và thanh niên Trung Hoa biểu tình khắp nước, một cuộc hội thảo được tổ chức tại Bắc Kinh, để thảo luận về đảo Ðiếu Ngư. Một diễn giả là Tướng La Viện (Luo Yuan), một sĩ quan tại chức. Ông tướng này đã đưa ra những biện pháp để phản công chính quyền Nhật mà chắc không có ông tướng nào ở Việt Nam bây giờ dám nói tới. La Viện đề nghị hãy đặt mìn chung quanh các hòn đảo Ðiếu Ngư! Hãy cho Không Quân Trung Quốc dùng các hòn đảo này làm nơi tập thả bom hay oanh kích!
Những đề nghị của Tướng La Viện chắc không bao giờ được Bắc Kinh thi hành. Ông La Viện cũng từng có luận điệu diều hâu khi nói đến vùng Biển Ðông của nước ta. Nhưng vẫn phải công nhận việc ông phản đối chính phủ Nhật Bản có lý do chính đáng. Nhưng một người quân nhân yêu nước có quyền nói lên nỗi uất hận khi thấy những hòn đảo của tổ tiên bị nước ngoài chiếm đoạt. Bao giờ người Việt Nam cũng có quyền bày tỏ lòng yêu nước như vậy?

Thursday, August 23, 2012

Tuồng nhơ bẩn trên sân khấu ô nhục


Cuộc đấu giữa các phe phái trong đảng cộng sản Việt Nam đe dọa cả tình hình kinh tế, sau vụ bắt giam ông Nguyễn Ðức Kiên, phó chủ tịch hội đồng sáng lập ACB - lớn nhất trong nhóm các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh.
  Các mạng đã truyền tin ngay trong đêm Bầu Kiên bị bắt giữ, sáng hôm sau, 21 Tháng Tám, báo chí mới bắt đầu đưa tin, nhưng giới có tiền không chờ đọc tin của nhà nước.
Theo bản tin từ trang DVSC.com của công ty Ðại Việt, thị trường chứng khoán trong nước đã “lao dốc, chứng khoán rớt thê thảm, các nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu ngân hàng.” Theo tính toán của các chuyên gia thì hai thị trường chứng khoán Hà Nội và Sài Gòn đã mất tổng cộng 35,600 tỷ đồng, tương đương gần 1.8 tỷ đô la Mỹ.
Các nhà tư bản đỏ mất tiền không đáng kể. Mối nguy là dân chúng không còn tin ở hệ thống ngân hàng. Giá vàng đã tăng vọt. Theo tin trên mạng, dân chúng kéo nhau đến rút tiền từ ngân hàng ACB, buổi chiều một số chi nhánh ngân hàng ACB đã hết sạch tiền. Các chi nhánh lớn hơn thì đông nghẹt người chờ rút tiền. Ngân hàng ACB đã yêu cầu các chi nhánh tạm ngưng việc trao tiền cho người đã được chấp thuận vay. Ban giám đốc ACB yêu cầu các trưởng, phó đơn vị không được rời khỏi nhiệm sở. Tổng giám đốc ngân hàng ACB là ông Lý Xuân Hải cũng đã bị công an bắt giữ.
Bộ Công An ở Hà Nội đã đưa ra thông cáo trấn an dư luận, nhưng không biết kết quả sẽ tới đâu trước tâm lý bất an của những người có tiền tiết kiệm đang lo bị mất vì các “ông lớn” trong đảng cộng sản đang “làm thịt” lẫn nhau. Mấy ngày nữa chúng ta mới biết tâm lý hoảng hốt của người dân có được trấn an hay không. Trước đây đã có phong trào chuyển tiền ra nước ngoài. Chắc chắn phong trào này đang được đẩy tới mạnh hơn.
Thống Ðốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình trấn an với lời hứa Ngân Hàng Nhà Nước sẵn sàng hỗ trợ ngân hàng ACB trong trường hợp xảy ra tình trạng rút tiền hàng loạt. Nhưng dư luận cũng biết ông Bình chính là người được Bầu Kiên dùng tiền để mua cho địa vị thống đốc, đồng thời cũng là người lo làm tiền cho Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu dân tiếp tục rút tiền thì chỉ trong mấy ngày sẽ gây khủng hoảng. Người gửi tiền ở ngân hàng khác cũng lo đi rút tiền về. Làm sao cấm được? Trong khi đó không ai biết việc cứu hay không cứu ngân hàng ACB sẽ do ai quyết định? Người nắm ghế thủ tướng hay người nắm Bộ Chính Trị? Làm sao dân tin được là những người này sẽ đồng ý được với nhau trong một thời gian ngắn?
Vì cuộc đấu giữa hai phe đã đến mức độ thù hằn, không thể nào thỏa hiệp được. Mạng Quan Làm Báo là tiếng nói của phe chống Nguyễn Tấn Dũng tiết lộ Bầu Kiên có quan hệ làm ăn với Nguyễn Thanh Phượng, con gái Dũng. Mạng này được coi là thuộc phe Trương Tấn Sang, chủ tịch nước, đã liên tiếp tấn công Nguyễn Tấn Dũng với đủ thứ tội từ lâu nay. Phe Trương Tấn Sang có blog Quanlambao, phe Nguyễn Tấn Dũng làm blog Tư Sang như để trả đòn.
Trên mạng Tư Sang, phe Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra lá thư tố cáo: “...Trương Tấn Sang làm bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (1997-1999) chỉ mới 2 năm nhưng sai phạm nhiều việc, bị tố cáo cụ thể nên Trung Ương phải rút ra Hà Nội để kiểm điểm, mà lớn nhất là liên quan đến vụ Năm Cam đầy tội ác và vụ bao che cho người Hoa (khi anh Sang làm chủ tịch thành phố) để nhận tiền vàng... Vợ chồng chị Hồng, giám đốc công ty xuất nhập khẩu Quận 3, tố cáo hành vi thiếu đạo đức của Trương Tấn Sang, một bí thư Thành Ủy ép một giám đốc nữ phải ngủ với mình, đi Singapore để cung phụng và làm gái bao qua đêm cho mình, người ta không chịu thì ra lệnh công an bắt bỏ tù...” Nhưng lời tố cáo nặng nề nhất là Trương Tấn Sang đã chịu làm tay sai cho Trung Cộng.
Sau khi Bầu Kiên đã bị bắt, trên blog Quanlambao mới tiết lộ những cuộc điện đàm của Bầu Kiên và đàn em, trong đó có Nguyễn Văn Bình, thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước, “Cái lão Trọng này đáng chết! Vậy mày gọi điện cấm các báo không được bình luận, chỉ đăng nó bị bắt vì kinh doanh trái phép ở mấy công ty, không được nói gì về ngân hàng cả...” Trọng là Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư, đang đứng chung phe với Tư Sang. Hai người đã bí mật lập chuyên án đặc biệt giao cho Bô Trưởng Trần Ðại Quang trực tiếp chỉ huy, chỉ báo cáo cho tổng bí thư và chủ tịch nước!
Mạng này còn “sáng tác” ra lời Nguyễn Văn Bình đề nghị với Bầu Kiên chạy chữa để ngăn chặn việc điều tra ngay, vì nếu phanh phui hết ra có thể làm hệ thống các ngân hàng thương mại lâm nguy: “Anh ơi bây giờ phải lấy cớ: Ổn định hệ thống ngân hàng, không làm dân hoảng loạn, lấy cớ ngân hàng nhạy cảm để không cho bọn cảnh sát điều tra và bọn TC2 mở rộng sang các ngân hàng Phương Nam, Eximbank, Techcombank, Bắc Á, Việt Bank, Kiên Long, SHB, Bản Việt... nếu không thì sờ đến đâu chết đến đó anh ơi...” Ðiều này chứng tỏ phe Trọng và Sang cũng biết ảnh hưởng nguy hiểm cho thị trường tài chánh và kinh tế, nhưng vẫn hạ thủ Dũng.
Trên blog Quanlambao mới viết: “Mấy lời với thầy trò Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Văn Hưởng (Hưởng là tướng công an, phe Dũng): Hãy mau mau lập công chuộc tội thì còn được khoan hồng, bằng không anh y tá sẽ thí mạng các người là điều chắc chắn!”
Anh y tá đây là Nguyễn Tấn Dũng.
Cuộc đấu giữa hai phe trong đảng cộng sản được dân chúng Việt Nam coi như một tấn tuồng, vì dù phe nào thắng, phe nào bại thì cũng vẫn là vở tuồng cũ. Kịch bản chính sẽ không thay đổi, họ vẫn bảo vệ một chế độ độc quyền chuyên chế cho một nhóm trên cùng chia nhau lợi lộc. Nhưng đây là một dấu hiệu cho thấy các phe phái trong đảng cộng sản không còn thỏa thuận được với nhau cách chia chác quyền lợi âm thầm bên trong nội bộ nữa.
Trước đây, những vụ tranh chấp trong đảng cộng sản đều diễn ra trong hậu trường, Võ Nguyên Giáp giành với Lê Duẩn; Lê Ðức Thọ với Trường Chinh; Lê Ðức Anh, Ðỗ Mười với Võ Văn Kiệt, vân vân, có thể đưa tới những vụ thủ tiêu, ám sát, nhưng ngoài các đảng viên cao cấp ra, không ai được biết có tranh chấp nội bộ. Trận đấu giữa hai phe hiện nay không còn giữ kín được nữa. Vì quyền lợi quá lớn, phe nào đang được ăn nhiều thì sẽ quyết tâm giữ mâm cỗ đến cùng, không thể bỏ được. Trước đại hội đảng vừa qua, phe Tư Sang đã tấn công phe Ba Dũng bằng việc phanh phui ổ tham nhũng Vinashin. Hơn nữa, các mạng lưới thông tin mới khiến mỗi phe lại tìm cách vận động dư luận bên ngoài bằng cách phơi bày các tội lỗi của đối thủ. Nhờ vậy, người dân bình thường mới được biết chi tiết về các tội lỗi đó.
Nhưng cuối cùng, những tội lỗi đó do đâu mà ra? Không phải những cá nhân như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Bầu Kiên đã soạn ra vở tuồng tranh giành lợi lộc này. Trong hệ thống xã hội đó, bất cứ lúc nào cũng có những người trong đảng cộng sản tìm cơ hội giành nhau các quyền lợi lớn lao không lo bị ai kiểm soát, nhờ địa vị độc tôn của đảng cộng sản. Chính hệ thống độc quyền chính trị đã sinh ra tình cảnh này. Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, hay Trương Tấn Sang cũng tuồng trong cùng một kịch bản.
Ðây là lúc những người dân bình thường phải quyết định: Dân Việt Nam sẽ tiếp tục chỉ đóng vài khán giả coi những vở tuồng nhơ bẩn như đang diễn ra trước mắt; hay phải đứng dậy, xóa bỏ cái sân khấu ô nhục này?