Tuesday, August 19, 2014

Thủ tướng lại giở thói côn đồ

Phát biểu tại buổi lễ của Bộ Công an hôm 16/8/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lớn tiếng ra lệnh cho lực lượng công an phải “dứt khoát không để nhen nhóm, hình thành những tổ chức chống đối, phá hoại”.
Lời tuyên bố đầy dọa nạt của ông Nguyễn Tấn Dũng phát đi trong bối cảnh xã hội dân sự Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, hàng chục tổ chức dân sự độc lập cũng đã được công khai thành lập trong thời gian qua.

Đối với chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam, những tổ chức hoạt động độc lập và không bị chi phối bởi đảng cộng sản đều bị quy kết là "chống đối, phá hoại". 
Trước đó, hàng loạt cơ quan truyền thông "lề đảng" đã tung ra các bài báo tấn công các tổ chức dân sự độc lập Việt Nam với lời lẽ hết sức cay nghiệt. Vì vậy, tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng được cho là lời đe dọa mở màn cho một đợt trấn áp mới nhắm vào giới hoạt động tranh đấu tại Việt Nam.
“Không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập”
Buổi lễ truyền thống kỷ niệm 69 năm ngành công an có sự tham dự của nhiều lãnh đạo chóp bu cộng sản như: Thường trực ban bí thư Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Bộ CA Trần Đại Quang, Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên...
Tiếp lời thủ tướng, đại tướng Trần Đại Quang cũng đã đọc một bài diễn văn chỉ đạo cho lực lượng công an “không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong nội địa”
“Kịp thời phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Đẩy lùi nguy cơ, loại trừ các yếu tố gây mất ổn định chính trị xã hội. Không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong nội địa”, bộ trưởng CA Trần Đại Quang nhấn mạnh.
Tiếp tục thể hiện sự trung thành tuyệt đối với đảng cộng sản, bài diễn văn của ông Trần Đại Quang còn khẳng định lực lượng công an “Luôn luôn xứng đáng là thanh kiếm và lá chắn bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”
Trước đó, lực lượng công an cộng sản đã liên tục thực hiện các cuộc tấn công nhắm vào giới hoạt động dân sự độc lập tại Việt Nam bằng các thủ đoạn như: triệu tập đến đồn công an, cướp tài sản, ngăn chặn việc đi lại... 
Đại diện của Mạng Lưới Blogger Việt Nam là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Thanh Nghiên đã bị CA sách nhiễu khi đến tham dự buổi hội thảo do đại sứ quán Úc tổ chức hôm 30/7. Cùng ngày, chị Trần Thị Nga và Huỳnh Phương Ngọc cũng bị bao vây khách sạn.
Thủ tướng côn đồ
Qua các tuyên bố như trên, có thể khẳng định thủ phạm đứng sau các cuộc đàn áp nhắm vào giới hoạt động tranh đấu tại Việt Nam trong thời gian qua chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và bộ trưởng công an Trần Đại Quang.
Dù xuất hiện trong bộ vest bóng bảy, nhưng ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn không che đậy được bản chất côn đồ của một anh du kích rừng từ thuở còn làm y tá tại U Minh. 
Dĩ nhiên, thói côn đồ của ông Dũng chưa bao giờ khiến giới hoạt động tranh đấu nhân quyền tỏ ra nao núng. 
Hồi năm 2012, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cơn giận giữ đã ban hành công văn 7169 cấm người dân đọc Dân Làm Báo, đồng thời còn ra lệnh bộ công an truy bắt và 'xử' những người đứng sau Dân Làm Báo. Sau 2 năm, Dân Làm Báo tiếp tục phát triển vững vàng và đang chuẩn bị tròn 4 năm thành lập vào ngày 22/8/2014 sắp tới.
Trước đó, cũng trong bài viết “TT Nguyễn Tấn Dũng quyết triệt hạ đường sống của các nhà hoạt động VN”, tôi cũng đã nhắc đến sự hung bạo của ông Nguyễn Tấn Dũng qua việc ký ban hành nghị định cấm giới bất đồng chính kiến VN làm việc cho các tổ chức nước ngoài.
Thật kỳ quái khi gần đây xuất hiện một số vị tự nhận là “nhân sỹ trí thức” hết lời tâng bốc Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí có vị còn ảo tưởng đến mức sẵn sàng ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng lên làm tổng thống, cùng với hy vọng hão huyền rằng ông ta sẽ trở thành một Boris Yeltsin của Việt Nam (!?). 
Giải quyết khủng hoảng chính trị bằng việc củng cố quyền lực cho một kẻ độc tài, phải chăng là sự bế tắc tuyệt vọng hay lại là một sai lầm bi đát nữa đây?

Wednesday, August 6, 2014

Ai là tác giả đích thực của đề nghị bán nước của CSVN ở Thành Đô 1990?

Cái kim lòi ra, cục phân bốc mùi, khối u độc di căn
Mấy hôm nay lề dân sôi sục lên với những bài tin về nội dung thỏa thuận được cho là bán nước Việt cho Tàu ở Hội nghị Thành Đô của đảng CSVN với CSTQ năm 1990, mà Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời báo, Wikileaks... vừa đưa ra, vì có câu: “Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...”
Nếu thế thì đúng là bán nước 100% rồi còn gì, lịch sử Dân tộc VN mấy nghìn năm chưa bao giờ có chính quyền nào hèn hạ và dám làm việc ô nhục sau lưng dân như thế!
Tất nhiên là đảng im lặng hoàn toàn. Chính cái thỏa thuận Thành Đô đảng CSVN ký với CSTQ đã 24 năm nay mà họ vẫn đang còn cố giấu diếm như mèo giấu cứt, dù nó đang bốc mùi lộ chất độc thối rồi, nên chưa biết họ sẽ “liếm láp” tiếp ra sao?
Chẳng ngạc nhiên và cũng thật đáng mừng khi còn có những người dân Việt như thiếu tướng Lê Duy Mật với tư cách đảng viên đã yêu cầu đảng của mình công bố chính thức nội dung Thỏa thuận Thành Đô đó... Nếu tướng Mật đã đưa yêu cầu của mình theo đúng thủ tục “góp ý nội bộ” thì sẽ có hai khả năng: đảng sẽ lờ tịt đi hay sẽ... khai trừ ông ra khỏi đảng. Nay yêu cầu của ông đã được công khai trên lề dân –tức “không theo đúng qui trình”, thì khả năng sau cao hơn, cũng như đảng mới khai trừ ông Ls. Trừng vậy. Nhưng câu chuyện sẽ không thể kết ở đó. Tất cả mới bắt đầu…
Với bài này, tôi muốn nói đến phần trước nữa, phần bắt nguồn, của Hội nghị Thành Đô 1990 của CSVN, và cố gắng thử trả lời câu hỏi như đầu bài đưa ra (tất nhiên, đó là nhóm chóp bu đảng CSVN rồi, nhưng bắt đầu từ ai?), hòng góp phần dự đoán “câu chuyện bán nước ở Thành Đô” của đảng CSVN sẽ tiếp diễn như thế nào?... Chứ chả lẽ dân Việt ta chỉ biết ngồi chờ “đảng ta dẫn dắt và lãnh đạo”, đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác mãi?!
Bối cảnh, hay điều gì dẫn đến Hội nghị Thành Đô?
Tại “thằng” Gorbachốp! Đó là tuyên bố hùng hồn và lời giải thích chính thức đến tận hôm nay 2014 của đảng CSVN, lý giải nguyên nhân phải có Hội nghị Thành Đô của họ năm 1990 trong các hội nghị đảng, chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở và đến các chi bộ phường xóm, vỉa hè…
Câu nói đó thể hiện văn hóa cao đặc thù của đảng CSVN - hôm qua đảng coi ông là vị Cứu tinh, là Giấc mơ, là Thiên đường mơ ước cho đảng theo, hôm nay ông là tội đồ bắt đảng phải theo mẹ đĩ già TQ! 
Câu nói đó thể hiện tâm thế hèn kém muôn đời của đảng CSVN, không bao giờ dám đối diện vấn đề và sự thật, chỉ luôn chỉ tay đổ lỗi cho người khác cho những hành động cơ hội luồn cúi bán dân hại nước của mình!
Thực chất chuyện gì đã xảy ra? Đã có ba chuyện chính lớn xảy ra.
Đến năm 1989 thì bức tường Berlin sụp đổ cùng hàng loạt các nước cộng sản tự gọi là XHCN ở Đông Âu và liên bang Xô viết tan rã - chiến tranh lạnh kết thúc với bên thua không có người để giương cờ trắng là bên cộng sản. Trong khi đó, Cộng sản VN đang dựa vào cộng sản Liên xô, nên chới với…
Sự kiện thứ hai là ở Thiên An Môn tháng 6/1988 ở Bắc Kinh, cũng trước một phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên như đã bắt đầu ở Đông Âu trước đó mà kết thúc là bức tường Berlin bị đập tan theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, chính quyền cộng sản Bắc Kinh với lệnh từ Đặng Tiểu Bình, đã dùng súng và xe tăng bắn và nghiền nát hàng ngàn sinh viên đấu tranh tay không trên quảng trường đỏ ấy làm nó thực sự đỏ vì máu và thịt của những người Trung Hoa trẻ dũng cảm vô song đó…
Sự kiện thứ ba là tình trạng khốn cùng của dân ở Việt Nam. 15 năm sau “chiến thắng vẻ vang”, đã nắm trong tay toàn đất nước, chính quyền cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn thấy bại trong công cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình, đưa kinh tế đất nước đến đáy bùn nghèo khốn tận cùng, đảng hèn kém tham nhũng và vô đạo đức đã mất hết uy tín trước dân và cả các đảng viên chân chính. Đảng CSVN lúc đó lại chống Tàu (vì Tàu đánh chiếm biên giới VN năm 1979) và dựa vào đảng CSLX đã tan rã, thì có nguy cơ cũng sẽ tan rã như thế…
Thế là, đảng CSVN chọn đổi chủ, chọn đi theo chủ mới đang chính là kẻ thù số 1 của dân tộc mình, là đảng CSTQ. Thế là họ xin đến TQ, xin có Hội nghị Thành Đô để qui hàng để có thể tiếp tục giữ thể chế cộng sản của mình ở VN, bằng bạo lực Tàu như họ đã thể hiện trên Thiên An Môn. Nhưng mức độ thần phục TQ đến thế nào, tức nội dung cụ thể của thỏa thuận ở Thành Đô năm 1990 đó là gì, đảng CSVN đến nay vẫn chưa dám công bố cho đảng viên của mình biết.
Nhưng lý do và mục đích của Hội nghị đó thì ai cũng rõ: vì đảng sợ nhân dân Việt Nam khai tử, như nhân dân các nước khác đã khai tử các đảng CS ở Đông Âu và cả Liên xô, vì lợi ích - vì sự thịnh vượng của các dân tộc đó.
Với Hội nghị Thành Đô, đảng CSVN đã đặt lợi ích của đảng trên lợi ích dân tộc Việt Nam. Nhưng đến bán cả quốc gia cho TQ, như nội dung thỏa thuận đã hé lộ ra như trên, thì quả là CSVN đã đi quá xa, và dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận, không bao giờ tha thứ!
Ai trong đảng CSVN đã đi bán nước ở Thành Đô 1990
Chúng ta biết, đoàn cán bộ chóp bu của CSVN bí mật đi TQ khi đó bao gồm: Cố vấn Phạm Văn Đồng, TBT Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT (Thủ tướng) Đỗ Mười và một số ít phụ tá. Ngay cái cách họ lén lút ra đi đúng ngày Quốc khách VN 2/9/1990 đã thể hiện mục tiêu đen tối, mưu đồ không trong sáng và tâm địa hèn hạ của họ rồi.
Nhưng vai trò cá nhân của ba nhân vật chóp bu trên của CSVN lúc đó trong thỏa thuận Thành Đô như thế nào, đó là câu hỏi của chúng ta ở đây.
Đồng, kẻ đã bán nước bằng công hàm 1958 lại có mặt trong đoàn đi bán nước lần này, thật không bất ngờ nhưng càng đáng nghi là một tác giả chính của nó, và không thể tha thứ! Đồng khi đó đã 84 tuổi, đã nghỉ hưu từ 1987, chỉ còn chức cố vấn hờ cho TBT Linh từ 1986, tại sao lại phải có mặt ở Thành Đô là câu hỏi then chốt?
Linh, kẻ mới bất ngờ lên TBT tháng 12 năm 1986 tại Đại hội VI, đã để lại ấn tượng khá tốt trong những cải tổ bắt buộc ban đầu, gọi là đổi mới, của CSVN, tại sao đã quay ngoắt thái độ từ cấp tiến đổi mới sang bảo thủ theo Tàu, là câu hỏi rất quan trọng cần trả lời?
Và Mười, tên hoạn lợn vốn đã bị thần kinh, chỉ biết ăn tục nói phét mà được Hồ cho làm phó TTg của Đồng, nay lên được TTg cũng là ngạc nhiên lớn (câu hỏi sẽ được trả lời ở phần sau), có vai trò gì trong gánh xiếc bán nước này, cũng là câu hỏi hóc búa không thể bỏ qua để hiểu vở diễn này của CSVN? Chúng ta để ý là ngay trước Thành đô tên hoạn lơn này được bất ngờ lên Thủ tướng để đại diện chính phủ ký thỏa thuận bán nước, rồi sau khi từ Thành Đô về, kẻ điên thiến lợn này còn được lên chức TBT thay Linh để triển khai thực hiện cam kết Thành Đô đó với Tàu cộng từ 1991 - Đại hội VII của CSVN và tái nhiệm cả ở Đại hội VIII?
Vậy trong ba người đó, ai hay cả ba, hay ai khác nữa là tác giả đích thực của thỏa thuận bán nước Thành Đô? 
Ai là tác giả đích thực của đề nghị bán nước ở Thành Đô?
Chúng ta hãy bắt đầu nhìn lại từ sự nghiệp đỉnh cao của TBT Linh. Tại sao Linh bất ngờ được lên TBT vào 12/1986 ở ĐH-VI? Đó là do 6/1986 Lê Duẩn chết, Trường Chinh được lên TBT lần 2 tạm thay Duẩn từ tháng 6 đến ĐH6 tháng 12/1986, rồi Chinh chọn Linh lên thay mình. Vậy tại sao Chinh lại chọn Linh từ trong Nam ra trong khi có nhiều ứng cử viên nặng ký hơn nhiều và gần gũi Chinh hơn? Có phải vì Linh đã cam kết sẽ làm cuộc đổi mới theo con đường Chinh vẽ ra? Mà chúng ta dã biết, Chinh là một trong bộ tứ Hồ-Đồng-Chinh-Giáp khét tiếng chỉ theo Tàu từ đầu đến cuối, và đổi mới của Chinh là CSVN quay lại theo TQ hoàn toàn? 
Từ 1975 đến 1986 CSVN do Duẩn thống trị đã hoàn toàn chống Tàu cộng, ghi cả trong hiến pháp tầu là kẻ thù só 1, nên khi Duẩn chết là lúc phe thân Tầu của Đồng-Chinh-Giáp vốn bị Duẩn “đì” nhưng đều còn sống (dù đã rất già và đã về hưu), nhưng đằng sau là Tàu cộng và Hoa Nam, có cơ hội phục thù và lên nắm lại quyền bính như thời Hồ, để lái VN theo Trung cộng lại hoàn toàn như Hồ mong muốn? Vậy cho nên, khi Chinh tạm giữ chức TBT, việc quan trọng nhất của Chinh là phải tìm ra nhân vật mới làm TBT sẽ theo phe thân Tàu của Chinh-Đồng-Giáp, đồng ý đưa VN quay về Tàu? Và đó chính là Linh (mà Hoa Nam tìm ra) - kẻ thật thà dễ bảo, không gian trá, không thủ đoạn, rất ngây thơ và ảo tưởng?
Đó là lý do Linh bất ngờ vượt qua nhiều ứng viên nặng ký hơn nhiều, lên chức TBT đảng CSVN tháng 12/1986 ở ĐH-VI? Và vì thế trong hơn nửa đầu nhiệm kỳ 1986-1991 của mình Linh đã khởi xướng đổi mới (thực ra là học theo Đặng chút ít) và cởi trói cho văn nghệ sĩ chút đỉnh, để gây thanh thế, tạo uy tín, để lừa lấy lòng quần chúng nhân dân, song sang cuối nhiệm kỳ Linh lại “trói lại” và cương quyết “bảo vệ thành trì XHCN còn sót lại là TQ và VN” (ảo tưởng). Đó là lý do Linh đã chấp thuận bán nước ở Thành Đô cùng Đồng và Mười - để cứu phe XHCN cho nhân loại? 
Như vậy, thỏa thuận Thành Đô là theo đạo diễn của Trường Chinh, rồi giám sát của Đồng, mà Linh chỉ là kẻ đổ bô ảo tưởng rằng mình thực cứu cả phe XHCN? Và vì thế Linh đã hối hận (quá muộn) khi năm 1991 xin rút khỏi vũ đài chính trị VN (dù Linh dễ dàng có thể tái nhiệm chức TBT khóa VII 1991 sau “đại công tích” bán nước ở Thành Đô 1990?)
Tiếp theo là Đồng, năm 1990 Đồng đã về hưu 3 năm rồi, sao còn phải tháp tùng Linh đi Tàu, dù với chức danh cố vấn? Đó phải chăng là vì Đồng được bộ ba Động-Chinh-Giáp giao giám sát thực hiện ký kết thỏa thuận bán nước Thành Đô (mà Bắc Kinh giao bộ ba đệ tử Hồ đã lọm khộm đó phải làm cho xong trước khi chết?), hoàn tất sự nghiệp cướp/bán nước của Hồ và bộ ba đó? Hơn nữa, sau khi lừa được Linh làm TBT bán nước năm 1986, Chinh đã chết năm 1988, nên chỉ còn Đồng và Giáp trong bộ ba đã bán linh hồn cho Hồ/Tàu ngay từ 1940, thì Giáp lúc đó uy tín và chức vụ đã rơi quá thấp (mới vừa phụ trách sinh đẻ kế hoạch 1983), nên Đồng dù đã thân già vô sự vẫn cứ phải nhiễu sự theo Linh về chầu. Vì đó là việc quá quan trọng – hoàn tất sự nghiệp cướp nước Việt của Tàu/Hồ - mà nhất định Bắc Kinh/Hoa Nam không thể để Linh tự diễn không có thúc ép và giám sát của Đồng (cũng là để Bắc Kinh còn qua Đồng mà chỉ đạo nội dung thỏa thuận)… Chả thế mà cả đảng CSVN khi đó, trước và sau Thành Đô, đều “châu ống đu đủ” để thổi Linh lên thành “lãnh tụ cứu tinh” cho VN và cả phe XHCN…
Và cuối cùng là tên hoạn heo chưa bao giờ đi học tử tế nhưng đã “Đỗ” Mười. Mười là kẻ rất ngu dốt nhưng vô cùng háo danh, hãnh tiến, và thủ đoạn độc ác luôn có thừa, được Hồ cho lên phó TTg từ 1968 mà đến 1988 vẫn chỉ chỉ là phó TTg (vì Đồng không cách chức ai trong 32 năm). Chúng ta nhớ, năm 1986 phe Đồng-Chinh-Giáp thân Tàu của Hồ nắm hai chức vụ chính là TBT (Chinh) và TTg (Đồng) nhưng ở ĐH VI t12/1986 đã chỉ giữ được chức TBT cho người của mình là Linh, còn chức TTg phải giao cho phái cấp tiến (của những người miền Nam) là Phạm Hùng. Nhưng t3 năm 1988 Phạm Hùng chết rất bất ngờ khi công tác tại Sài gòn (nghi vấn là do bị Hoa Nam sát hại), nhưng lẽ ra người lên thay phải là phó TTg Võ Văn Kiệt cùng phe Phạm Hùng, thì Mười bất ngờ được chọn (bởi Hoa Nam, kẻ đã giết TTg Phạm Hùng là cho mục đích đó?). Tại sao Hoa Nam chọn Mười? Chỉ vì Mười rất ngu nhưng quá háo danh/háo chức nên dễ điều khiển, có thể mua chuộc nếu cho danh/chức? Thế là kẻ hoạn lợn điên (lợn không bị điên) được Bắc Kinh đặt lên chức Thủ tướng (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng – vẫn theo cách tổ chức chính phủ của Liên xô/Duẩn cũ) từ 1988 là để chuẩn bị thay mặt chính phủ Việt Nam đi bán nước ở Thành Đô? Một lựa chọn hầu như tối ưu của Hoa Nam, tôi nghĩ thế. Kẻ như vậy cho làm TTg VN để hắn bán TQ cho Mỹ hay ngược lại, hắn cũng cam kết sẽ làm…
Tóm lại, tác giả đích thực của thỏa thuận bán nước ở Thành Đô, từ cách chọn và chuẩn bị nhân sự đứng đầu của CSVN mấy năm trước đó đến cách đi Thành Đô và ký kết, chính là… Hoa Nam hay đảng CSTQ, qua Chinh và Đồng (có thể Chinh/Đồng/Giáp cũng được tham gia góp ý cách thực hiện, nhưng không phải tác giả hay đồng tác giả), đến Linh và Mười chỉ là hai kẻ ký kết đổ bô mà thôi (dù họ có đổ bô vì cái gì). Chúng ta thấy rõ ràng bóng đen của Hồ trong “cái bô” Thành Đô đó… Chính vì thế mà đến nay hết đời TBT Mười, đến Phiêu, đến Mạnh, rồi đến Trọng… tất cả đều cung cúc tuân thủ và thực hiện thỏa thuận bán nước ở Thành Đô như chúng đang đội trên đầu cái chúng gọi là “Tư tưởng đạo đức Hồ” và “4 tốt 16 vàng” Tàu vậy…
Thế là sự nghiệp cướp nước Việt cho Tàu của Hồ được đàn em hoàn tất về thủ tục…
Hội nghị Thành Đô 1990 bản chất nó là thế. Tôi không cần phải nói cụ thể cái gọi là Hội nghị Thành Đô đó đã diễn ra như thế nào nữa, các bạn đã biết hay có thể biết chi tiết dễ dàng. Rồi Lịch sử dân tộc ta sẽ còn phải phán xét nó dài dài chứ không chỉ hôm nay chúng ta đang muốn biết rõ nó, phản đối nó, phẫn nộ vì nó…thôi đâu.
Nó là sự kiện nhục nhã nhất Lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam ta, vô tiền khoán hậu! Vì chưa bao giờ vua quan Việt Nam kéo nhau trốn dân đi bán nước bằng cả đoàn đại diện đứng đầu đảng cầm quyền mấy triệu người và đứng đầu chính phủ đương nhiệm như thế cả! Cả mấy nghìn năm chỉ lác đác có vài kẻ bán nước như Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống... - đếm chưa hết ngón tay trên một bàn tay, và họ muốn bán nước nhân danh cá nhân họ thôi, nhưng không thành…
Điều đáng buồn và đau xót hơn nữa, là sau khi ký thỏa thuận bán nước đó, bọn bán nước vẫn ngấm ngầm thực hiện cam kết bán nước đó suốt 24 năm qua mà dân không biết, vì đảng CSVN không cần/thèm/phải công bố ra cho dân – những kẻ đã bị chúng bán đứng – biết! Có lẽ chúng tính để những kẻ “mua được” dân và nước Việt sẽ thông báo cho dân Việt luôn về “thương vụ” cho tiện! Chúng còn đang lo chước thứ 36: Tẩu! Vì đằng nào thì dân Việt cũng sẽ do bọn người khác ở Bắc Kinh “lãnh đạo” rồi! Và sự thể đã diễn ra đúng như thế, dân Việt được biết nước mình đã được bán cho Tàu cộng từ Tân Hoa xã và Thời báo Hoàn Cầu ở Bắc Kinh, và từ thế giới ảo - Wikileaks…
Và những kẻ thực hiện cam kết bán nước Thành Đô
Ký xong Hiệp định bán nước cho Tàu cộng ngày 4/9/1990 ở Thành Đô về, Linh không ra ứng cử TBT tiếp vì hối hận (là do tôi suy diễn thế thôi), và Linh đã hối hận suốt 8 năm sau trước khi chết hay không và thế nào thì chỉ có mà…Linh biết. Nhưng việc Linh không muốn làm TBT nữa đã tạo cơ hội cho kẻ thiến heo t6 năm 1991 leo lên “tột đỉnh danh vọng đảng” mà trước đó nếu có phải tự thiến chính mình chắc chắn lão cũng đồng ý làm để được thế. Câu hỏi là tại sao kẻ thiến heo đó may mắn được Hoa Nam chọn?
Câu trả lời khá đơn giản. Là vì Bắc Kinh phải cần những kẻ thực “ngu trung” nhất để thực hiện cam kết bán nước ở Thành Đô đó. Bắc Kinh/Hoa Nam vẫn biết “trung” với CSVN là không thể có, vì CSVN đã bán nước VN cho chúng/Tàu cộng tức CSVN không trung với cả đất nước và dân tộc Việt, thì ai ngu gì mà tin chúng nó/CSVN có thể trung với mình hay với bất kỳ ai. Khái niệm trung thành có lẽ không tồn tại với CSVN. Nhưng ngu thì chúng nhiều kẻ có thừa và Mười là kẻ có thừa nhiều nhất, nên để Mười làm TBT là tốt nhất cho Tàu. Vì còn ai sẽ tích cực thực hiện cam kết bán nước đó hơn kẻ hoạn lợn “rất tự hào đã được ký nó” nữa chứ?
Nhưng nước Việt có mấy ai ngu được cỡ như Mười, nên từ sau Mười, ngoài tiêu chuẩn “ngu không cần trung”, tiêu chuẩn và điều kiện để được Bắc Kinh bổ nhiệm làm TBT đảng CSVN và TTg VN là phải sang Bắc Kinh học thuộc cam kết Thành Đô 1990 và cam kết thực hiện nó trước mặt những kẻ cướp nước ở Bắc Kinh đó, rồi mới được về lên chức và phải thực hiện cam kết.
Đến nay thì danh sách các chức vụ của CSVN phải sang Bắc Kinh khấu đầu cam kết bán nước trước đã mở rộng ra cho cả Bộ CT rồi (đến tên Nhân và mụ Ngân ngay sau khi được bổ sung vào BCT cũng phải sang Bắc triều cam kết thực hiện hiệp ước bán nước đó ngay rồi mới về nhận chức vụ mới). Còn gần hai trăm ủy viên TƯ đảng CSVN thì đều phải qua “đào tạo đặc biệt” bên Tàu và cam kết bán nước cho Tàu có ký kết…
Rồi chúng triển hai cam kết bán nước đó trá hình trong dạng thực hiện phương châm 4 tốt, 16 chữ vàng đã suốt một phần tư thế kỷ nay, qua ĐH-VII 1991 đến ĐH-XI 2011, và sáp tới là ĐH-XII 2016…
Thời hạn chót cho CSVN thực hiện xong cam kết bán nước, biến VN thành tỉnh tự trị của Tàu trong vòng 30 năm đã tới gần, đến 2020, chỉ còn một đợt “bàn và giao nhiệm vụ” bán nước của đảng ở ĐH-XII 2016 nữa thôi…
Vài điều dự kết, hay: dân Việt ta tính sao đây?
Thế là nó là thế rồi! Thế là chúng bán nước rồi ! Dân Việt ta biết tính sao đây !?
Ai có thể sửa chữa, thay đổi, khắc phục hậu quả của thỏa thuận bán nước Thành Đô? Đó là nhân dân Việt Nam, và chỉ có thể là nhân dân Việt Nam. 
Tất nhiên, cụ thể về tổ chức, đó không thể là đảng CSVN hay tổ chức nào tương tự nó, con cháu nó, cánh tay nối dài hay hình bóng “ve sầu” của nó. Về cá nhân, đó không thể là những người đã từng tham gia tạo nên nó hay chấp nhận nó, giấu diếm nó, thực thi nó, đồng lõa với nó… vì bất cứ lý do gì – tức là tất cả bè lũ chóp bu của đảng CSVN từ 1990 đến nay, rồi tất cả bè lũ đảng viến cấp cao, cấp trung, cấp thấp đã và đang giấu diếm và thực thi thỏa thuận bán nước đó ở mọi lĩnh vực của xã hội Việt Nam hôm nay.
Vì thế, đã nhiều lần tôi nói, chúng ta không thể hy vọng gì vào các lãnh đạo hay đảng viên CSVN “phản tỉnh” nếu họ còn bảo vệ đảng, bảo vê “Bác” – tức là còn bảo vệ Thỏa thuận Thành Đô hay công hàm PVĐ 1958. Nếu có, thì chúng ta có thể, chỉ có thể thôi, tin tưởng và hy vọng vào những cán bộ đảng viên cấp trung đến cấp thấp, như thiếu tương Lê Duy Mật, vì họ không dính vào không tham gia thực hiện những chủ trương bán nước của đảng như Thành Đô hay công hàm PVĐ, và vì họ nay không bảo vệ đảng và Bác “nữa” mà chỉ vì dân tộc trên hết – cái đặc tính thứ hai này mới là quyết định.
Sửa chữa hay vượt qua thỏa thuận bán nước ở Thành Đô của CSVN như thế nào? Câu hỏi này thực là quá sức trả lời của tôi, dù là một cá nhân phản đối nó và sẽ không bao giờ thực hiện nó.
Nó là câu hỏi lớn và vô cùng khó của cả dân tộc Việt Nam hôm nay, đầu thế kỷ 21 này, lớn và khó hơn cả việc vượt qua công hàm bán nước PVĐ. 
Trả lời nó là chúng ta phải quyết định đi liền hành động, với tư cách cả một dân tộc, chọn đi theo con đường nô lệ Bắc Kinh hay đi lên con đường Tự do dân chủ như đại đa số (trên 80%) các nước trên Thế giói này đang đi lên, mà dẫn đầu là các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada, Úc… và hàng trăm quốc gia khác đều thịnh vượng hơn Việt Nam nhiều nữa.
Câu trả lời là của cả các bạn, cả của tôi, là của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng nhất định dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua nó để giữ gìn độc lập tự do của đất nước, như cha ông, Tổ tiên chúng ta đã làm bất lực các thỏa thuận bán nước của Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống ngày xưa!
Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, hay cùng nhau đứng lên nói “Không! Không bao giờ!” với thỏa thuận bán nước ở Thành Đô 1990 của CSVN, Việt Nam ơi!

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

"Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ.  

Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc." - Thời báo Hoàn CầuTân Hoa Xã


Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu cũng như tướng lãnh quân đội Nhân dân Việt Nam. 
Bí ẩn vẫn bao trùm Hội nghị Thành Đô
Trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên quy tụ lãnh đạo cao cấp của hai nước Việt Nam-Trung Quốc cho đến nay vẫn còn để lại trong lòng người dân nhiều câu hỏi về những gì mà hai bên bàn luận. Những khuôn mặt phía Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên kia là Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.
Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô
Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô như một vùng cấm của người cộng sản mặc dù nội dung của nó liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.
Lịch sử cho thấy bất cứ sự thỏa hiệp mờ ám nào dù tinh vi tới đâu cũng bị lật tẩy. Không ai có thể buộc kẻ thù không được công bố những gì mà trong quá khứ đã trót bằng lòng với chúng. Câu chuyện công hàm Phạm Văn Đồng là một thí dụ lớn nhất mà nhà nước có thể lấy làm bài học vì thời gian dù có bao lâu vẫn không mài mất được chữ ký của một Thủ tướng.
Công hàm Phạm Văn Đồng do Hà Nội quá lâu không lên tiếng giải bày khiến Trung Quốc có lợi thế như một yếu tố phân hóa quần chúng không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền khi xảy ra vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tương tự như vậy, Trung Quốc đã dùng sự mập mờ của Hội Nghị Thành Đô để bịt miệng lãnh đạo Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử khiến tay họ trót nhúng chàm vì quá tin vào người bạn xã hội chủ nghĩa.
Năm 2004 tập hồi ký của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho thấy phần nào sự bí ẩn phía sau khi ông bị Trung Quốc gạt ra khỏi Hội Nghị vì quan điểm chống Trung Quốc công khai của ông. Yếu tố này một lần nữa chứng minh sự gượng ép của những người đại diện Việt Nam tham gia hội nghị và mãi một phần tư thế kỷ sau đó bí mật vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô.
Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cho biết:
"Trung quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch, đó là điều anh ấy nói riêng với tôi và sau này tôi được biết anh ấy nói công khai trong Bộ Ngoại giao. Còn nhiều việc anh ấy nói với tôi nữa nhưng tôi chưa dám công bố bởi vì có thể những việc đó anh ấy sẽ viết trong cuốn hồi ký của anh ấy.

Anh ấy là người rất hiểu Trung Quốc và hiểu tận tim gan của họ. Ví dụ như Trung Quốc nói rằng đảo Hoàng Sa có xương của người Trung Quốc thì ảnh đập lại anh ấy nói nếu như thế thì ngay thủ đô Hà Nội cũng sẽ là đất của Trung Quốc bởi vì gò Đống Đa có rất nhiều xương của Trung Quốc vì người Hán bị vua Quang Trung tiêu diệt chất thành cả một cái gò như thế. Nếu nói đâu có xương của người Hán người Trung Quốc thì nơi đó là dất của Trung Quốc thì phi khoa học."
Việt Nam một tỉnh tự trị của Trung Quốc?
Tài liệu về hội nghị này hết sức ít ỏi khiến bao nhiêu học giả muốn nghiên cứu về nó phải chịu thua vì sự trung thành của người trong cuộc. Bí mật càng giữ, sự xuyên tạc sự thật về nó càng khiến người ta tin hơn, đặc biệt nếu sự xuyên tạc ấy đến công khai từ phía Trung Quốc khi hai nước chạm trán với nhau trên vấn đề biên cương lãnh thổ.
Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã vừa cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau:
"Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...

Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc."
Với những từ ngữ tuyên giáo như thế không ai có thể tin rằng lãnh đạo Việt Nam đã mù quáng đến nỗi đi tới quyết định như vậy mặc dù sự xụp đổ của Liên Xô đã khiến đảng Cộng sản Việt Nam phải tìm cách dựa vào Trung Quốc để sống còn.
Dù sao thì Chủ nghĩa Xã hội cũng không thể biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc vì ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cộng với Phạm Văn Đồng không đủ chính danh để ký một văn tự vô giá trị như thế.
Tuy nhiên vì Hà Nội tiếp tục im lặng nên câu hỏi đã dần dần biến thành sự thật cho dù chỉ phân nửa sự thật đến từ Hoàn Cầu Thời Báo.
Phản ứng của nhân sĩ trí thức và tướng lãnh Việt Nam rõ ràng là phẫn nộ và họ đòi hỏi nhà nước phải bạch hóa sự kiện Thành Đô. Trước tiên là Thiếu tướng Lê Duy Mật sau đó là Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang cùng nhiều người khác đã công khai kiến nghị lãnh đạo phải giải thích minh bạch những điều mà Trung Quốc đưa ra như đã từng đưa sự việc công hàm Phạm Văn Đồng khiến Hà Nội phải ngậm bù hòn làm ngọt không thể tiến tới một vụ kiện phản đối Trung Quốc.
Nói với chúng tôi Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết:
Vấn đề Thành Đô quan hệ như thế nào nó ảnh hưởng ra sao và hậu họa của nó thế nào thì giờ mình cũng chưa thật rõ cho nên tôi nêu ra vấn để để các đồng chí lãnh đạo xem xét và đồng thời có ý kiến với toàn bộ đảng toàn nhân dân thế thôi. Bây giờ thì cứ chờ họ xem quan điểm, thái độ và cách giải quyết như thế nào. Còn bây giờ mình hãy nêu vấn đề, một vài ví dụ thế thôi. Nó là vấn đề bang giao chiến lược và của tập thể chứ không phải của một cá nhân nào.
Đại tá Nguyễn Đăng Quang không tin vào những thông tin này tuy nhiên theo ông nếu nhà nước vẫn chủ trương im lặng thì không khác gì trao vũ khí tuyên truyền cho giặc, ông chia sẻ:
Cái thông tin này thì bản thân tôi nghĩ rằng không phải là thật. Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa trong người dân Việt Nam với nhau.

Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó.

Còn chuyện có công bố cho dân biết về Hội nghị Thành Đô hay không thì tôi nghĩ rằng không phải là chuyện dễ làm nhưng phần nào ít nhiều gì cũng phải cho người dân biết.
Hội Nghị Thành Đô như một giọt nước tràn ly, đây là cơ hội để nhà nước bạch hóa một sự thật được giữ kín trong suốt 24 năm. Tuy nhiên bí mật khi đã trở thành gai nhọn thì cách hay nhất vẫn phải chịu đau mà lấy gai lể nó.



Sunday, July 13, 2014

Trung Quốc cướp đảo biển VN là: “Chưa cụ thể rõ ràng”!?

Trung Quốc cướp đảo biển VN là: “Chưa cụ thể rõ ràng”!? - Nhận định của TS Đinh Xuân Thảo Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Quốc Hội - VN.
Ngày 10/7/2014 Thượng viện Hoa Kỳ với 100% phiếu thuận thông qua nghị quyết “S.Res.412” lên án việc TQ sử dụng các hành vi khiêu khích và gây hấn để thay đổi hiện trạng, gây mất ổn định trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Nghị quyết có đoạn nhấn mạnh yêu cầu Bắc Kinh rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vị trí hiện tại, đảm bảo nguyên trạng trước thời điểm tháng 5/2014.
Trước sự kiện Thượng viện Mỹ thông qua Nghị quyết số 412 về vấn đề Biển Đông ấy ngay lập tức một ngày sau, 11/7 Bộ Ngoai giao Việt Nam đã lên tiếng ủng hộ, phát ngôn viên ông Lê Hải Bình cho biết Việt Nam hoan nghênh Nghị quyết 412 của Thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 và các lực lượng hộ tống khỏi vị trí hiện tại, không có các hoạt động trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển (COLREGs); lên án các hành động cưỡng bức, đe doạ hoặc sử dụng vũ lực, thay đổi hiện trạng hay gây bất ổn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Trong khi trước đó dù Việt Nam liên quan trực tiếp gay gắt với Trung Quốc trên biển Đông nhưng Quốc hội CS/Việt Nam đã không ra “nghị quyết” riêng về tình hình biển Đông. Về việc này ông Đinh Xuân Thảo Viện Nghiên cứu lập pháp Quốc hội CSVN, cho phóng viên VOA Việt ngữ biết lý do (nguyên văn): 
“Chủ tịch Quốc hội VN đã ra một thông cáo báo chí về tình hình ở biển Đông, thể hiện rất là rõ các nội dung và quan điểm của quốc hội, chứ không ra một hình thức nghị quyết bởi vì theo quy định của hiến pháp và pháp luật Việt Nam, khi mà ra một nghị quyết là nó phải có mục đích, nội dung, phải cụ thể, chứ còn trong vấn đề này (v/v biển Đông) thì cũng chưa có một cái cơ sở hay căn cứ nào. Nếu mà ra nghị quyết thì cái nội dung nó là vấn đề gì thì cái đó nó không rõ ràng. Nó phải có nội dung cụ thể mà phải trên cơ sở đề nghị của chính phủ thì lúc đó quốc hội mới xem xét”.(*)
“…chưa có một cái cơ sở hay căn cứ nào, và không rõ ràng... phải trên cơ sở đề nghị của chính phủ thì lúc đó quốc hội mới xem xét.” (đưa vào nghị trình ra Nghị Quyết). 
Đó là sự nhận định về hành vi bành trướng của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam qua lời nói trực tiếp phát ra từ cửa miệng của ông Đinh Xuân Thảo viện trưởng một viện chuyên trách nghiên cứu “Lập Pháp” tại cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân là Quốc Hội VN.
Cái cách nói của ông tiến sĩ ngành lập pháp này khiến nhiều đồng bào của ông phải ví von rằng: Đợi đến khi lính Trung Quốc vào nhà ông đè ngửa vợ ông ra và 9 tháng 10 ngày sau vợ ông “thòi” ra một thằng “tàu con” thì đó mới là điều kiện cần và đủ “cơ sở để căn cứ” cho ông chứng minh nó hiếp vợ mình và thêm nữa, phải có vợ ông lên tiếng “đề nghị” thì ông mới xem xét nhất trí lên án hành vi cưỡng hiếp ấy!? Chứ nó “hiếp” mà chưa đẻ con ra là: “chưa có một cái cơ sở hay căn cứ nào… thì cái đó nó không rõ ràng.” (lời ông TS Đinh Xuân Thảo nói về hành vi trên biển Đông của Trung Quốc ) 
Ví von so sánh như thế với ông tiến sĩ này mà không sai chút nào, bởi hình như cả nước ai ai cũng biết (mà ông một ĐB/QH thì cố tình vờ đi) Hoàng Sa 1974, Gạc Ma 1988 những người lính và ngư dân vô tội đồng bào của ông, máu đỏ đầu sóng, thây vùi biển Đông biết bao lần vì quân xâm lược TQ, hiện nay trước mắt ông là giàn khoan 981 của TQ như trụ đồng Mã Viện ngày xưa đang cắm ngạo nghễ trên vùng biển quê nhà gần 2 tháng rồi, hàng chục tàu kiểm ngư Việt Nam đã bị tàu hải giám vũ trang TQ đâm, va, tông ủi hư hại, hàng loạt phóng viên báo chí nước ngoài tháp tùng ra hiện trường quay phim chụp ảnh ghi nhận đầy đủ rõ ràng nhưng riêng ông ĐB/QH Đinh Xuân Thảo thì “hiên ngang” đưa cái mặt mẹt ra tuyên bố với PV quốc tế rằng: Quốc Hội VN chưa đưa ra một “nghị quyết” lên án Trung Quốc là vì: 
"... chưa có một cái cơ sở hay căn cứ nào. Nếu mà ra nghị quyết thì cái nội dung nó là vấn đề gì thì cái đó nó không rõ ràng.”!???. 
Vậy ra, với riêng ông Đinh Xuân Thảo thì Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của VN, xây dựng thành TP/Tam Sa như hiện nay là chưa có “cơ sở hay căn cứ nào”!? và 64 chiến sĩ Trận hải chiến Gạc Ma 1988 là đang “nghỉ phép” đâu đó ngoài biển Đông chưa về chứ gọi là liệt sĩ “thì cái đó nó không rõ ràng”!?. 
Và thưa ông ĐB/QH/CS- tiến sĩ “thiểu năng trí tuệ” Đinh Xuân Thảo ơi! Chắc là Nghị Viện Hoa Kỳ cũng nhầm rồi khi “chưa có một cái cơ sở hay căn cứ nào. mà ra nghị quyết thì cái nội dung nó là vấn đề gì thì cái đó nó không rõ ràng.” – Không rõ ràng, nhưng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngay lập tức đã lên tiếng hoan nghênh ủng hộ nhiệt liệt Nghị Quyết ấy của Hoa kỳ!?? 
Từ lâu rồi người dân Việt Nam nhận xét, đa phần các ĐB/QH là đảng viên CS có mặt trong QH là do “đảng cử dân phải bầu” tất cả họ như một đám bù nhìn, không hơn, vâng! Đúng là như thế, một đám bù nhìn vô nhân cách.

Thursday, July 10, 2014

HD981 - Thép cũng hóa bùn trong chế độ chìm xuồng chủ nghĩa

Ông Tổng Bí thư đảng cộng sản tuyên bố "Chừng nào ngư dân còn bám biển thì còn giữ được đảo...". Cần phải nói thêm cho trọn gói: "Chừng nào đảng còn bám ghế thì ngư dân vẫn phải còn bám biển". 
Ông Tổng Bí thư đảng cộng sản tuyên bố "Ngư dân bám biển là Tổ quốc còn chủ quyền". Phải nói thêm cho trọn ý: "Đảng còn bám ghế là Tổ quốc còn nhiều... HD981". 
Nhưng nếu nhìn cho kỹ thì chuyện ngư dân đem thân nghèo bám biển cho lãnh đạo giàu có của đảng được nệm ấm chăn yên thật sự không ăn nhập gì đến những thái độ cần phải có của một quốc gia đối với vụ việc HD981.
Nếu dùng hình ảnh bình dân để minh họa thì nó chẳng khác gì chuyện kẻ cướp vào nhà ngang nhiên xúc phạm phụ nữ và đảng với ông Tổng bí chủ nhà lại kêu gào trẻ con trong nhà ra mé hiên ngoài mà bám trụ để xem như còn bám chút chút thì nhà... ta vẫn là của... đảng. Còn đám hải tặc 981 đang thoải mái khoan thì cứ để yên cho chúng khoan. 
Ngày 2 tháng 5, 2014 đến nay đã hơn 2 tháng. 
HD981 vẫn thoải mái khoan. 
Đã nhiều lời tuyên bố ở nhiều mức độ - từ "thối" đến "thơm" - của lãnh đạo đảng. 
Đã nhiều con tàu ngư dân VN bị đâm thủng đánh chìm. 
Đã nhiều xác người trôi giạt biển Đông... 
Nhưng HD981 của khựa-Tàu vẫn hò khoan theo nhịp hò 164 của khựa-Việt. 
Trong điệu hò 164 này: 
Đảng và nhà nước thay thế hình ảnh tàu khựa khoan đất mẹ bằng hình ảnh của những ngư dân "hào hùng" bám biển ở đâu đó không có bóng dáng HD981.
Trí thức của đảng hân hoan hát bài thoát-trung và đảng viên cao cấp của đảng khăn gói lặn lội sang Tàu học cách giữ đảng, giữ ghế cho đúng với tinh thần còn đảng còn quyền và còn tiền.
Truyền thông báo chí lề đảng hàng ngày gieo vào đầu 90 triệu dân một trạng thái yên tâm - đã có đảng và nhà nước lo. 
Đảng và Nhà nước lo như thế nào? bằng cách gì? 
Đó là bằng chiêu bài "Hoạt động kinh tế biển của ngư dân gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo", "Đánh bắt xa bờ là chủ trương chiến lược""Cùng với phát triển kinh tế và đời sống, huyện đảo phải làm tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ." 
Lo không xong như lời của ngài tổng bí thì sao? 
Thì đến đời con cháu chúng lo. 
Tất cả đều có sự tính toán "khôn ngoan", có mục tiêu và có chiến lược bởi bộ chỉ huy Ba Đình. Đánh võ mồm chính trị, xoa dịu quần chúng bằng tuyên truyền mị dân, ngăn chận mọi chống đối quân xâm lược nhưng không nằm trong "ý" của đảng, và đem ngư dân làm tốt thí là chủ trương toàn diện của đảng trước họa xâm lăng. Nhưng chủ trương này không phải để chống xâm lược mà để cố giữ bộ mặt sơn son trét phấn của đảng "ta": bộ mặt nạ dòng yêu nước. Giữ bộ mặt yêu nước là chủ trương của đảng từ thuở đảng còn chui rúc trong hang cho đến ngày Hồ Chí Minh đem lá cờ Phúc Kiến phất lên ở Ba Đình... và cho đến ngày hôm nay. 
Với chủ trương này của đảng, HD981 sẽ vẫn còn đó, đảng vẫn còn đây và thời gian sẽ là con nước cho dư luận chìm xuồng mà HD981 vẫn nổi lềnh bềnh. 
Cứu đảng trước. 
Cứu nước sau.
Mà làm sao có chuyện cứu nước từ tập đoàn bán nước!?
Thôi thì:
Cứu đảng trước
Bán nước tiếp tục theo sau.

Friday, July 4, 2014

Chưa có gì nghiêm trọng!?!

Đối với đảng CS (cụ thể là giới lãnh đạo), chỉ có một điều nghiêm trọng, đó chính là sự sống còn của đảng, là quyền lực tuyệt đối và muôn niên của đảng, là quyền lợi toàn diện và dài lâu của đảng. Trước “giá trị tối thượng” này, thì sinh mạng của đồng bào (ngay cả đồng chí, đồng đảng) đều vô nghĩa, có chết hàng triệu cũng không sao. Trước “giá trị tối thượng” này, thì đất nước của tổ tiên (lãnh thổ, lãnh hải) bị Tàu cộng chiếm dần hay nuốt hết cũng không sao, miễn là đảng còn được đàn anh che chở và cho tiếp tục cai trị như thái thú đất Việt. Trước “giá trị tối thượng” này thì cứ nói to, nổ lớn, tuyên bố lên gân là sẽ “chống Tàu, kiện Tàu” nhưng phải “lựa chọn thời điểm thích hợp” để rồi sẽ chẳng làm gì cả và để mặc cho kẻ truyền kiếp tha hồ làm mọi chuyện...
*
Hôm 19-06-2014, Dân Làm Báo đưa tin: “Nóng ruột trước tình hình căng thẳng tại Biển Đông, đại biểu quốc hội Trương Trọng Nghĩa đã phải đột ngột 'chiếm diễn đàn' nghị trường nhằm lên tiếng kêu gọi quốc hội Việt Nam ra một nghị quyết tuyên bố chính thức về Biển Đông, thể hiện rõ thái độ trước các hành vi xâm lược của Trung Quốc. Ý kiến của vị đại biểu đoàn Sài Gòn được nêu lên vào sáng ngày 19/6, giữa lúc quốc hội Việt Nam với 500 ông nghị, bà nghị đang mải mê thảo luận về dự án Luật Căn cước công dân. Phiên họp lần thứ 7 năm nay sẽ kéo dài trong 28 ngày, quốc hội chủ yếu bàn những việc tào lao mà không có chương trình nói về tình hình Biển Đông hiện đang hết sức nguy cấp. Đơn cử như việc bỏ phiếu tín nhiệm, cả 500 ông bà nghị sau khi bàn tới bàn lui mới thống nhất việc chuyển từ 3 mức tín nhiệm xuống thành... 2 mức. (Còn 'tín nhiệm' và 'tín nhiệm thấp')”. Sau đây là trích đoạn trong bài phát biểu đầy thổn thức của ông Nghĩa: “Nếu Quốc hội lần này không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức gì cả về biển Đông, tôi tin rằng nhân dân ta sẽ rất thất vọng, thậm chí hoang mang. Các đại biểu Quốc hội chắc chắn sẽ nghẹn lời trước những ý kiến chất vấn của cử tri. Còn dư luận thế giới thì chắc chắn sẽ bình luận rằng hành vi xâm phạm và đe dọa chủ quyền của Việt Nam trắng trợn đến thế mà Quốc hội nước này lại không có phản ứng chính thức thì việc gì các nghị sĩ và nhân dân các nước khác phải lên tiếng? Đây có thể mà một cái cớ để phía Trung Quốc tiến hành những việc làm hiếu chiến và nguy hiểm hơn nữa”. 

Sở dĩ ông Nghĩa bức xúc nói thế là vì 20 ngày sau khi giàn khoan Tàu cộng đã được cắm xuống vùng biển của đất nước (01-05-2014), Quốc hội Việt cộng mới lên tiếng phản đối gọi là trong một “thông cáo báo chí” đơn giản do văn phòng Quốc hội soạn thảo, bày tỏ lo ngại và xin xỏ Tàu cộng rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Thế nhưng, đáp lại đề nghị tha thiết của ông dân biểu còn ý thức dân tộc cũng như đòi hỏi mạnh mẽ của mọi người Việt còn tinh thần ái quốc, khi kết thúc kỳ họp thứ Bảy hôm 24-06-2014, Quốc hội Việt cộng, qua miệng Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng (vốn câm họng trong gần 2 tháng), đã công khai “lên án” việc Tàu cộng đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển của Việt Nam trong... diễn văn bế mạc, thay vì qua một nghị quyết hay một tuyên bố riêng biệt mà cái gọi là cơ quan quyền lực cao nhất nước này có bổn phận phải làm như thông lệ tại mọi quốc gia gặp hoàn cảnh tương tự. 
Biện minh cho thái độ lạ lùng, gây phẫn nộ và gieo thất vọng này, ông Trần Quốc Thuận, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã nói trong cuộc cuộc phỏng vấn với BBC cùng ngày: “Quốc hội Việt Nam chưa ra nghị quyết riêng về Biển Đông vì tình hình chưa 'đặc biệt nghiêm trọng”. Trong khi đó, truyền thông Việt Nam tiếp tục đưa tin về các vụ đụng độ trên biển giữa tàu chấp pháp hai nước. Chẳng hạn báo cáo của Cục Kiểm ngư cho biết lúc 9g30 sáng ngày 23-06, tàu KN 951 của lực lượng kiểm ngư Việt Nam đã bị '5 tàu Trung Quốc vây ép'. VnExpress ghi nhận: "Trước tiên tàu Hải Tuần 11 ngăn cản. Sau đó, tàu Hữu Liên 09 và Tân Hải 285 đâm vào mạn chiếc KN 951". Sau cú va chạm, mạn phải và mạn trái con tàu Việt bị "móp méo, biến dạng hoàn toàn, một số thiết bị lan can hư hỏng". Mới đây, ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư, được báo trong nước dẫn lời cho biết từ khi căng thẳng lên cao, Tàu Cộng đã đâm hỏng 19 tàu Việt. Hồi cuối tháng Năm, một tàu cá của ngư dân Đà Nẵng đã bị tàu Trung Quốc cố ý đâm chìm. 
“Chưa/không đặc biệt nghiêm trọng!” Đó là câu nói cửa miệng hay ý nghĩ trong lòng của các lãnh đạo Việt cộng từ xưa tới nay. Gần đây nhất là lời của đại tướng (chưa đánh đã đầu hàng) Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La (Singapore) hôm 31-04. Sau khi ví von chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam (mà chính Thủ tướng Nhật và bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ vừa phản đối kịch liệt giùm) như mâu thuẫn nội bộ gia đình và cần giải quyết song phương (chứ không đa phương như khôn ngoan của thiên hạ), tướng Thanh nói: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước BẠN láng giềng Trung Quốc (dùng từ BẠN của ngành Tuyên giáo) về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề TRANH CHẤP chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những VA CHẠM gây căng thẳng như sự việc ngày 1-5-2014”. Xa hơn chút nữa, cách đây vài năm (2010), là tuyên bố của TBT Nguyễn Phú Trọng trong kì họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: “Tình hình biển Đông không có gì mới”, giữa lúc Trung cộng cho đủ loại tàu quân sự trá hình ngang dọc vùng biển này, ra lệnh cấm đánh cá trong mấy tháng mùa hè, ngăn chặn, tấn công, bắn giết hay bắt bớ ngư dân và ngư thuyền Việt Nam... Nay thì Trọng Lú vẫn thủ khẩu như bình, bình chân như vại, bất chấp “Thư yêu cầu nhà nước VN kiện TQ ra tòa án quốc tế” của mấy trăm nhân sĩ ký hôm 19-06, bất chấp “Thư yêu cầu TBT Nguyễn Phú Trọng trả lời kiện (hay không kiện) Trung Quốc về biển Đông” của luật sư Trần Vũ Hải và đại tá Nguyễn Đăng Quang gởi ngày 22-06, bất chấp lời khuyên của Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia Úc về Việt Nam (VOA 26-06): “Đây là một trường hợp phải lên tiếng bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức độ uy hiếp các nước ở Á Châu, bằng cách trừng phạt và áp lực các nước này, để họ đừng lên tiếng phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan ngoãn im lặng thì có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc, nhưng đây không phải là một quan hệ ngang hàng giữa hai quốc gia ngang nhau, mà phải trở về quan hệ giữa một nước lớn và chư hầu như thời phong kiến khi xưa”. 
Não trạng “không có gì nghiêm trọng” (cho Tổ quốc và Quốc dân) này bắt nguồn từ chính đầu đảng Cộng sản là Hồ Chí Minh chứ không ai khác. Dù biết nhiều qua Việt sử (hay biết ít vì bị đuổi khỏi trường Quốc học quá sớm?) rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, rằng Mao là hiện thân số một của đầu óc bành trướng Đại Hán, Hồ Chí Minh đã thản nhiên rước giặc vào nhà sau khi nắm được quyền lực: rước cố vấn của chúng, quân đội của chúng, rước chính sách giết nông dân, diệt trí thức, tàn sát đối lập của chúng, còn rước cả kế hoạch mở rộng lãnh thổ và lãnh hải của chúng nữa… khiến đời sống nhân dân điêu linh, nguyên khí quốc gia tàn lụi, biên giới đất tổ thu hẹp… Rồi đang khi các nước cũng bị qua phân vì 2 chế độ chính trị đối lập như Đức Quốc, Đại Hàn chẳng hề gây chiến với nhau (nhất là từ phía Cộng) để bảo toàn giang sơn chung của tiên tổ, thì Hồ Chí Minh quyết “đốt cả dãy Trường Sơn”, gây ra cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, khiến hao người tốn của cả hai bên, tiêu diệt hàng triệu mầm mống nhân tài của đất nước… “Không có gì nghiêm trọng” nên y đã ra lệnh (hay để mặc) cho đám “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” tại Huế giết hàng ngàn thường dân và viên chức vô tội trong Tết Mậu Thân… 
Não trạng “không có gì nghiêm trọng” (cho Tổ quốc và Quốc dân) tiếp tục chi phối các thế hệ lãnh đạo CS đàn em và học trò của Hồ. “Đánh Mỹ cho Liên Xô, Trung Quốc tới người VN cuối cùng cũng được” như Lê Duẩn tâm niệm. Tống cổ vào trại cải tạo cả triệu “binh lính Ngụy, viên chức Ngụy”, dùng sức lực cơ bắp của chúng để sản xuất của cải thay vì dùng khả năng trí tuệ của chúng để xây dựng đất nước cũng được. Cứ hãy dâng Trung Quốc ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão Sơn, 1000km2 trên đất, 10.000km2 trên biển... Cứ hãy cho Trung Quốc thuê trong nửa thế kỷ 300ha rừng quốc phòng, rừng đầu nguồn; cứ hãy để Trung Quốc xây trong cả trăm năm những thôn làng phố thị kiểu tô giới, biệt khu ở vành đai biên giới, ở yếu huyệt Tây Nguyên, ở trung tâm đồng bằng Nam Bộ, ở mũi cực nam Cà Mâu, xây những hải cảng dân sự (nhưng sẽ trở thành quân sự) ở Vũng Áng, ở Quảng Trị...; cứ hãy cho Trung Quốc trúng thầu 90% công trình xây dựng và kỹ nghệ thiết yếu như điện, đường, khoán sản... Cứ hãy thỉnh thoảng đưa lá cờ 6 sao (1 lớn 5 nhỏ) lên màn ảnh truyền hình quốc gia, giúi vào tay các em bé đón quốc khách nước bạn, in trong sách giáo khoa mẫu giáo hay tiểu học; cứ hãy ghi lên sách địa lý, lên bản đồ quốc gia hai chữ Tây Sa và Nam Sa thay cho Hoàng Sa và Trường Sa “lạ lẫm”. Cứ hãy gây khó khăn cho các cuộc nghiên cứu thảo luận về chủ quyền đất nước, các cuộc triển lãm tư liệu về chủ quyền biển đảo; cứ hãy trấn áp các cuộc biểu tình chống nước bạn, giam nhốt các tên phản kháng quan thầy Bắc Kinh... Không có gì nghiêm trọng cả! 
Cũng không có gì nghiêm trọng việc lừa gạt toàn dân để ra một Hiến pháp mới rập theo Cương lĩnh đảng, trong đó đảng tiếp tục là lực lượng lãnh đạo duy nhất của xã hội đất nước, là sở hữu quản lý duy nhất của tài nguyên quốc gia, là chủ nhân lớn nhất của kinh tế, thủ lãnh cao nhất của công an quân đội, bất chấp công an quân đội phản bội bản chất của mình, kinh tế phản bội nguyên tắc tự do của mình, tài nguyên phản bội ý nghĩa của mình là chia ra cho tất cả, để nhân dân sống ấm no, đất nước phát triển và Tổ quốc yên lành... 
Vì đối với đảng CS (cụ thể là giới lãnh đạo), chỉ có một điều nghiêm trọng, đó chính là sự sống còn của đảng, là quyền lực tuyệt đối và muôn niên của đảng, là quyền lợi toàn diện và dài lâu của đảng. Trước “giá trị tối thượng” này, thì sinh mạng của đồng bào (ngay cả đồng chí, đồng đảng) đều vô nghĩa, có chết hàng triệu cũng không sao. Trước “giá trị tối thượng” này, thì đất nước của tổ tiên (lãnh thổ, lãnh hải) bị Tàu cộng chiếm dần hay nuốt hết cũng không sao, miễn là đảng còn được đàn anh che chở và cho tiếp tục cai trị như thái thú đất Việt. Trước “giá trị tối thượng” này thì cứ nói to, nổ lớn, tuyên bố lên gân là sẽ “chống Tàu, kiện Tàu” nhưng phải “lựa chọn thời điểm thích hợp” để rồi sẽ chẳng làm gì cả và để mặc cho kẻ truyền kiếp tha hồ làm mọi chuyện. 
Thế nhưng nhân dân đang nhắc nhở đảng Cộng sản những điều nghiêm trọng như sau: Hồ Chí Minh và mọi lãnh đạo CS từng hại dân bán nước, giết người cướp của mà đã về chầu tổ Mác-Lê của chúng thì đã được ghi bia đá trăm năm và bia miệng ngàn năm là bọn tội đồ dân tộc tệ hại nhất, hơn cả Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống và những hôn quân bạo chúa của Việt sử. Còn đám lãnh đạo đang từng ngày cướp đất của nông dân, cướp lương của công nhân, cướp tài sản của công dân, cướp tự do của giáo dân, đang từng ngày dùng luật pháp, tòa án, công an, côn đồ để trấn áp dân lành, khủng bố người yêu nước, đang từng ngày làm ăn với giặc, mở cửa rước giặc, nhượng bộ cho giặc thì nếu không sớm từ bỏ quyền lực đã chiếm đoạt, tài sản đã cướp bóc thì cũng đoán được số phận đích đáng mà nhân dân và lịch sử sẽ dành cho các người.

Wednesday, July 2, 2014

Vì sao đồng chí X la to, hạ giọng, rồi… im bặt?

Mọi người đều biết: trong tứ trụ triều đình csVN, đồng chí X là kẻ la to nhất về vụ giàn khoan Haiyang 981 của Tàu.
Ngày 11 tháng 5, tại Hội nghị cấp cao ASEAN diễn ra ở Myanmar, đồng chí đã nói một bài dài, với giọng điệu cực kỳ gay gắt, trong đó có câu: "...Yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu vũ trang, tàu quân sự ra khỏi vùng biển của Việt Nam.” 
Tiếp theo, ngày 22 tháng 5, trong cuộc họp báo chung với tổng thống Philippines tại Manila, đồng chí đã nói: “Nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.”
Có vẻ như lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân đã làm cho thủ tướng kiên quyết vứt bỏ cái thứ “hữu nghị viển vông” đó. Hơn thế, một số bậc đại trí thức của nước nhà còn quả quyết phen này thủ tướng sẽ thay đổi thể chế, đưa Việt Nam lên con đường dân chủ đa đảng!
Vì sao có chuyện lạ, một kẻ từng ráo riết xúc tiến các dự án Bauxite Tây Nguyên vì quyền lợi của Trung Cộng, từng ký kết tay đôi các văn bản “hợp tác” với các tỉnh trưởng của TQ, bỗng tỏ ra bất bình với tập đoàn Tập Cận Bình đến vậy? Chắc vì cuối đời đồng chí bỗng thấy tội lỗi của bản thân (và của bè đảng) nên quyết tâm sám hối, dành hết những ngày tháng còn lại để phục vụ dân nhằm chuộc lỗi chăng?
Theo các bậc đại trí thức nước nhà thì đúng là vậy đó.
Nhưng ta hãy thử nhìn lại diễn biến tình hình gần đây để nhận định cho chính xác hơn.
Tháng 6 năm 2013, Tư Sang thăm TQ. Trước đó, ông này là nhân vật trong tứ trụ lạnh nhạt nhất với Tàu Cộng. Sau chuyến thăm đó, ông Sang bắt đầu nói những lời tốt đẹp hơn về ông bạn láng giềng “bốn khốn nạn”, bất kể sau đó mấy hôm ông đã qua Mỹ gặp Obama.
Cũng trong năm 2013, ông Sang và ông Trọng (Lú) đã thay nhau đi thăm một số quốc gia đối tác quan trọng, trong khi đồng chí X do đang yếu thế chỉ được đi thăm những nước kém quan trọng hơn.
Mặc dù thế trận giữa phe ông Dũng và phe hai ông Trọng-Sang luôn giằng co, khi nghiêng về bên này, lúc lệch về bên kia, nhưng hiện tại phe Trọng-Sang đang lấy nguyên tắc đảng ra để gây sức ép, trực tiếp “chỉ đạo” cả công việc hành pháp, tạo ra những khó khăn đáng kể cho đồng chí X. Vì vậy, X thường xuyên ở trong tình trạng ức chế.
Một điều mà có vẻ như đồng chí X chỉ được biết mập mờ, do có kẻ từ “cung vua” mách bảo, là có một thỏa thuận béo bở giữa cánh Trọng-Sang với TQ trong thời gian gần đây. Điều này chỉ lộ ra trong lần ông Sang “tiếp xúc cử tri” tại Sài Gòn vừa qua. Một cử tri đã chất vấn ông Sang về thông tin TQ cung cấp 20 tỉ USD ODA và 100 tỉ USD tín dụng cho VN. Ông Sang đã lờ đi như không nghe thấy câu hỏi này.
Như vậy, có thể đoán rằng trước khi giàn khoan của Tàu Cộng xuất hiện trong vùng đặc quyền kinh tế của VN, đồng chí X đã được nghe nói về các khoản ODA và tín dụng đó, và tất nhiên đồng chí vô cùng căm tức, vì từ trước đến giờ những vấn đề như vậy được ủy thác cho đồng chí ấy, do các đồng chí kia quá ấm ớ về kinh tế - tài chánh. Đến khi cái giàn khoan vào nằm chềnh ềnh trong vùng biển VN thì không gì còn có thể ngăn được sự “bùng nổ” của đồng chí ấy. Và cơn giận đến điên người của đồng chí X đã được trút ra không phải vì “quyền chủ quyền” hay “quyền tài phán” con mẹ gì, mà đơn giản vì miếng ăn mà thôi!
Tất nhiên là sau đó thì phe “vua” đã tức khắc phải vỗ về đồng chí X. Biểu hiện rõ ràng nhất là đồng chí này đã chuyển tức khắc từ thái độ khuyến khích biểu tình chống Tàu sang răn đe và cấm tiệt biểu tình.
Tuy nhiên, cơn giận của đồng chí vẫn chưa xẹp hẳn. Và chuyến sang Hà Nội của sứ giả Dương Khiết Trì có mục đích chính là vỗ về đồng chí X (hứa sẽ bảo cánh Trọng-Sang chia phần cho, thậm chí cho điều hành phần vốn chính). Vì vậy mà, trong khi PTT ngoại trưởng Phạm Bình Minh (vốn là con trai ông cựu ngoại trưởng ghét Tàu Nguyễn Cơ Thạch) trừng mắt nhìn Trì, thì chính Ba X không hề tỏ thái độ giận dữ như đáng lý phải vậy. Và cái cụm từ “đứa con ngỗ ngược” không chỉ nói về VN, mà còn ngụ ý chính đồng chí X nữa. Trên thực tế thì đồng chí này đã gần như ngậm miệng từ sau khi giáp mặt Dương Khiết Trì. Cũng chính vì vậy mà sau đó TQ đã ngang ngược huy động thêm 4 giàn khoan nữa rập rình gần vùng biển VN.
Cũng nên nhớ rằng X, mặc dù lớn tiếng về giàn khoan, nhưng lại lờ hẳn đi một vấn đề có thể còn nghiêm trọng hơn, đó là việc Tàu Cộng đang xây một căn cứ ở Gạc Ma, điều mà chính quyền Philippines kiên quyết phản đối, còn nhà cầm quyền VN thì lờ tịt.
Thật khôi hài vì có những người vẫn đang hý hửng trông chờ đồng chí X làm “cách mạng dân chủ”.

Phượng Yêu (Tập 41)

Lâu nay bác cũng bị lây dịch Lú nên quên mất Phượng Yêu của bác. May nhờ xem hình ảnh cô Đỗ Thị Minh Hạnh vừa ra tù tràn ngập trên báo mạng khiến bác mới sực nhớ đến cô con gái rượu của Ba Ếch.
Bác “liên hệ” Minh Hạnh với Thanh Phượng chẳng phải do hai cô nường có ngoại hình và sự nghiệp giống nhau; con cái ông bà chủ làm sao giống con cái đầy tớ được, đặc biệt dưới thời Xã Nghĩa. Bác trông Hạnh mà nhớ tới Phượng là vì, nghĩ hai người cùng là phận nữ nhi và đồng thế hệ cả, sao lại tương phản nhau một trời một vực đến thế.
Muốn biết sự tương phản nhau giữa hai cô ra sao, Phượng cứ bất lệnh cấm của tía Ếch, lén vào Dân Làm Báo đọc bài “Chuyện của Hạnh” do một tên phản động chống phá tổ cò viết.
Bác viết meo này mục đích là để chúc mừng Phượng Yêu, con đầy tớ mà ngon hơn con chủ.
Nói là chúc mừng Phượng nhưng là chúc mừng Kách Mạng đã thành công ở chỗ đó. Nhớ thời bọn “Trí, Phú, Địa, Hào” chưa “được” Kách Mạng “đào tận gốc tận rễ”, con cái đám đầy tớ có đứa nào dám ngang bằng, chứ nói chi đến ngon hơn đám con cái ông bà chủ. Thế mà ngày nay, đúng y chang là “lá bài lật ngữa”, con cái đám đầy tớ nhân dân, đứa nào cũng được đảng và nhà nước ưu tiên đãi ngộ, xã hội chào thua trong khi con cái ông bà chủ, nhất là cái đám ông bà chủ mang họ Ngụy chẳng đứa nào ra trò trống gì cả.
Đã thế, con bọn chủ như Đỗ Thị Minh Hạnh lại bày đặt bỏ học đi đấu tranh cho nhân công bị bóc lột. Thời này đất nước ta đã sạch bóng quân thù, Mỹ thì cút Ngụy thì nhào đã tám hoánh 40 năm, nhân dân đều được đảng dựng đứng lên làm chủ tập thể, lại do nhà nước quản lý và đảng lãnh đạo, xã hội cào bằng rồi thì làm gì còn cảnh người bóc lột người nữa mà đòi đánh trâu!
Con cái ông bà chủ cũng được học hành cùng trường cùng thầy cùng sách với con đầy tớ nhân dân; năm tuổi đều đã biết phân biệt bác Hổ vớ bác Hồ rồi.
Trong khi Minh Hạnh đã học đến Đại học, ắt thấm nhuần chủ nghĩa ông cố nội râu xồm và tư tưởng bác Hồ, sao lại không thuộc bài giai cấp công nhân là thành phần ưu tú, là đội quân tiên phong của Kách Mạng Vô sản; đời nào lại có chuyện đảng là trí tuệ, mắt sáng hơn Chồn Đèn để cho họ bị bóc lột.
Nói túm lại là cứ nhìn vào con cái ông bà chủ, rồi nhìn vào con cái bọn đầy tớ nhân dân mà điển hình là Phượng Yêu của bác, ai mà không mừng cho Ba Ếch đã bỏ công đi làm Kách Mạng từ khi còn là nhái bén.
Mừng Cách Mạng Vô Sản đã thành công.
Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp Phượng Yêu.

Nhìn vào sự thật

Bất cứ ai ai sống tại Việt Nam đều biết rằng Cộng sản luôn luôn sợ sự thật, luôn tìm mọi cách cấm người dân biết sự thật. Đó là cả một chiến lược triệt để, lâu dài và toàn diện.
Sử dụng chính sách song trùng trong quản lý hành chính với hệ thống đảng trị bên cạnh hệ thống chính quyền - vừa có chủ tịch UBND huyện, vừa có Bí thư đảng ủy huyện, vừa có Thủ tướng, vừa có Tổng bí thư... đã bóp méo toàn bộ sự thật, và cấm người dân quan tâm đến sự thật.
Sử dụng tuyên truyền, truyền thông triệt để và khủng bố người dân khi muốn tìm hiểu sự thật.
Về lâu dài trong giáo dục, triệt để nhồi sọ tê liệt người dân, dẫn đến nền giáo dục “định hướng XHCN” lạc hậu, không phê bình, không phản biện, không hoài nghi, không tư duy, không sáng tạo... Một tầng lớp học sinh, sinh viên rập khuôn, thiếu sức bật, thiếu sức sống, học để ra trường ngoan ngoãn đi kiếm ăn như một công nhân bình thường.
Năm 2013 đầu tư gần 20% ngân sách vào giáo dục. Năm 2014 đề nghị 34000 tỷ đồng để cải cách giáo dục, nhưng kết quả mọi việc “vũ như cẩn”, không có gì thay đổi, bởi vì thực chất không muốn thay đổi hệ thống giáo dục tốt hơn, chứ không phải không thể. Rồi không biết số tiền đó đã đi vào đâu?
Chúng ta đừng nghĩ rằng CS ngu. Không có đâu, ngược lại, bản thân CS biết nhìn vào sự thật để bảo vệ sự tồn tại của mình. Vì vậy mà chúng nó tồn tại đến bây giờ.
Phương châm của Đảng là bảo vệ tuyệt đối sự tồn tại, quyền lợi, quyền lực của Đảng. Chúng ta thường chưởi CS ngu, “không biết thay đổi”, “không biết tận dụng cơ hội”, “một bài học cho Đảng để đưa đất nước tiến lên”, “để giải phóng dân tộc” v.v... Chúng ta đứng trên phạm trù dân tộc, tổ quốc để phê bình đảng CSVN, trong khi đảng có cần chuyện đó đâu, đảng luôn giải quyết mọi vấn đề trên phạm trù quyền lực và tồn vong của đảng, ngay cả việc bán nước, cũng chỉ để cho sự tồn tại của đảng.
CS không ngu đâu! Chúng ta phải hiểu đảng viên CSVN là những ai? Trong lớp phổ thông của tôi, và nhiều lớp khác, những người học dở, yếu kém nhất lớp, cộng chút lưu manh, xảo trá, thi nhau hô khẩu hiệu, vài năm sau vô đảng, vậy là cứ tiến lên vùn vụt. Càng thủ đoạn, thâm độc càng tiến nhanh. Do đó, họ sẽ tìm mọi cách bẩn thỉu, tàn ác, hung tợn nhất... để bảo vệ sự sống còn của mình, bởi vì họ hiểu rằng chính kiến thức sẽ giết chết họ.
Con người nói chung có hai nhánh, nhánh thứ nhất: học thức, nhân bản, tôn trọng con người, cổ xúy cái đẹp cái đúng, nhánh thứ 2 ngược lại, tàn ác, xảo quyệt, lưu manh dối trá. Cả hai nhánh đều đấu tranh sinh tồn trong xã hội như nhau. Khi nhánh số 1 thành công thì chúng ta có xã hội ưu việt, tốt đẹp. Khi nhánh số 2 thành công thì chúng ta có xã hội độc tài phát xít, Công Sản... Nhánh nào cũng phải có chiến lược bảo vệ sự tồn tại của mình. Nhánh 1 lo cho dân cho nước thì quyết định kiểu khác. Nhánh 2, do đảng, vì đảng, của đảng thì quyết định kiểu khác. Chuyển qua nền KTTT định hướng XHCN cũng vì sự tồn vong của đảng, xin vào WTO cũng vì sự tồn vong của đảng, quyết liệt xin gia nhập TPP cũng vì sự tồn vong của đảng, thậm chí gởi con cái qua Mỹ học cũng vì sự tồn vong của đảng, chứ không phải vì mong tiến bộ... Miệng luôn nhai nhải vì dân, vì nước... đó chỉ là chiêu bài chính trị.
Do đó, qua việc TC xâm lược VN, nhiều người nghĩ rằng CSVN sẽ liên kết với Mỹ chống lại TC, hoặc Nguyễn Tấn Dũng sẽ là Gorbachev, giúp nhân dân VN thoát khỏi “tình hữu nghị viển vông”, đến hôm nay chúng ta đã thấy rõ rằng: CS vẫn luôn là CS. CSVN sẽ không bao giờ thoát khỏi Trung Cộng, ngược lại, cùng nhau bắt tay TC bán nước, đàn áp nhân dân. Trung Cộng chơi VN đến cùng, nhưng cũng sẽ không bao giờ để VN ngã sang Mỹ, hoặc liên kết với các nước khác. Một chiêu thức mới “thuộc địa Cộng sản” bắt đầu, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Trung cộng và Việt cộng cùng gắn kết cùng tồn tại.
Vì vậy, chỉ có một cách duy nhất là lật đổ CS, để cứu nguy cho dân tộc thoát khỏi ách ngoại xâm và trả quyền làm chủ về cho nhân dân.
Phải biết nhìn thẳng vào sự thật dù tốt hay xấu, dù gai góc hay đơn giản, để giải quyết mọi vấn đề.
Ảnh hưởng bởi nền giáo dục CS, xã hội VN sống không có phê bình, không có phản biện. Chính điều này đã làm xã hội suy đồi, không lối thoát, con người trở nên bạc nhược, hèn yếu, không có ý chí tiến thủ. Nhìn vào đảng như vậy, nhìn vào chúng ta, thử hỏi, những người đấu tranh dân chủ có bị ảnh hưởng cách giáo dục này không? Có.
Dù muốn hay không sống trong xã hội CSVN anh phải chịu sự ảnh hưởng của nó. Nhờ internet mở mắt, anh thấy bất công xã hội, giả dối, tàn ác CS, anh tham gia đấu tranh. Nhưng cách thức hành động, cách thức suy nghĩ v.v... anh vẫn chịu sự ảnh hưởng của nó dù 0,01% ít hay nhiều.
Ở VN việc khổ nhất là phê bình, ngay cả việc phê bình có chứng minh hẳn hoi, thậm chí ca sĩ bị phê bình hát dở còn quật ngược lại; “tôi hát dở sao tôi có fan này fan nọ”.
Thiết nghĩ để phong trào đấu tranh Dân chủ phát triển cần phải vượt qua điều này, phải nhìn thẳng vào sự thật. Rút tỉa kinh nghiệm dù có thể buồn bã, nhưng để chúng ta đứng lên, hơn là để CS đè bẹp.
Phong trào dân chủ đang có những hạn chế gì?
1- Số lượng thực và ảo:
Có một khác biệt quá lớn giữa thế giới mạng và thế giới thực. Từ vài người ban đầu qua 10 năm 2004-2014 hôm nay trên cả nước có khoảng 200 người đấu tranh công khai, trực diện CS. Đó là thành tích tốt đẹp, rất đáng khích lệ, rất đáng tự hào, từ chổ sợ sệt, đã có 200 người đứng thẳng dậy, tát vào mặt CS: “chúng tao không sợ mày”. Nhưng liệu có bao nhiêu người dân biết những khuôn mặt này? Trên mạng thì số lượng ủng hộ, “make friend” lên con số vài ngàn người. Thực tế xã hội thì người dân lơ là, chỉ biết khoảng 10 người đấu tranh trở lại, và hầu như không quan tâm đến họ. Lỗi tại ai?
Có vẻ như phong trào dân chủ chưa đi vào người dân, chỉ sống hoàn toàn trên mạng, trên môi trường quốc tế, trong nội bộ bọn CA, nhưng người dân thì sợ hãi.
Tình hình xã hội đã thay đổi. CSVN liên kết với TC bán nước, ngàn cân treo sợi tóc, ý chí người dân đang sôi sục. Với thực tế “ảo”, số lượng người như vậy làm sao chúng ta đủ sức để biểu tình, hô hào, lôi cuốn quần chúng lật đổ CS.
Xem như chúng ta đã hoàn thành xuất sắc giai đoạn 1. Giai đoạn hạt nhân. Đã có 200 khuôn mặt xuất hiện, lay động được quần chúng. Nếu chúng ta cứ tiếp tục chiến lược tự phát như lâu nay, thì đến bao lâu mới đủ nhân sự “nói chuyện“ với CS.
Chúng ta phải vào giai đoạn 2, giai đoạn phát triển. Mỗi thành viên đấu tranh lâu nay, vừa là người lãnh đạo, vừa là người tổ chức, hoặc 20 tổ chức XHDS phải có kế hoạch để phát triển nhân sự. Phát triển công khai tiếp tục hay bán công khai, hoặc bí mật. Chắc chắn chúng ta không thể ngồi chờ người dân tự ý thức, công khai trên web, hay công khai đối mặt với CS, bởi vì nó quá chậm, quá may rủi, quá rời rạc. Đây là yêu cầu rất khó, nhưng nó là yếu tố then chốt nhất của mọi cuộc cách mạng, không có quần chúng anh sẽ không làm được cái gì cả.
2- Chưa có phương pháp, chiến lược đấu tranh:
Bên cạnh đó, từ ban đầu, trực diện cá nhân, chuyển thành phong trào đấu tranh lâu dài chắc chắn chúng ta chưa lột xác từ cá nhân để chuyển thành chiến lược tổng thể. Để phong trào phát triển rộng khắp toàn quốc, bắt buộc các nhóm phải có chiến lược đấu tranh cụ thể hơn. Có chiến lược tốt mới thu phục được quần chúng. Đấu tranh bằng biểu tình, hay phương cách nào khác, đòi quyền lợi cuộc sống, giá xăng dầu, giáo dục, y tế... hay quyền lợi công nhân, hay đấu tranh nhân quyền, hay tự do ngôn luận...? Chúng ta phải suy nghĩ về điều này.
Chính thể độc tài nào cũng vậy, từ Đông Âu đến Ai Cập, họ phải tạo ra tầng lớp nhân dân bạc nhược, khiếp sợ để dễ dàng cai trị, đừng vì điều này mà nản lòng, chính vì vậy chúng ta cần phải có chiến lược đấu tranh, và chiến lược mở rộng quần chúng. Hai chiến lược này song song và bổ sung cho nhau. Đầu tiên nhất phải giúp nhân dân vượt qua sợ hãi. Bên cạnh đó, xác định đấu tranh chống CS trên mặt trận nào. Mỗi nhóm sẽ có một chiến lược khác nhau, để tổng công kích CS trên tất cả mọi mặt. Chiến lược có thể thay đổi theo từng giai đoạn. Ngay cả biểu tình cũng có nhiều cách rất khác nhau.
Hiện tại tôi chỉ thấy ngồi chưởi CS, và hô hào tham gia xuống đường trong khi CS bẻ gãy quá dễ dàng, Phải chăng chúng ta cần có những phương cách nào khác?
Như vậy, những hình thái chiến lược nào có thể và không thể thực hiện được ở VN.
Không thể thành lập đảng đối lập:
Như cá nằm trên thớt, tất nhiên anh có thể thành lập đảng, nhưng tồn tại hay không là do đảng CSVN tàn ác tới cỡ nào. Chỉ khi nào đấu tranh vượt qua khỏi sự kiểm soát của CS, anh mới có thể suy nghĩ đến điều này. Tuy nhiên, cũng có nhiều cách thức thành lập đảng khác nhau:
1- Đảng ở nước ngoài, nhân sự hoàn toàn ở nước ngoài: Thực hiện được nhưng người dân trong nước sẽ không tham gia. Bởi nhân sự đó quá xa lạ và không đủ sức thuyết phục họ. Đặc biệt, làm sao hiểu sâu, sát xã hội VN mà đưa ra đường lối, chủ trương chính xác, phải chăng là những tư duy đúng sách vở, lý thuyết. Hai cách giáo dục của 2 xã hội khác nhau. Phải sống ở VN, lớn lên ở VN anh mới hiểu hết CS, hiểu từng hơi thở của cuộc sống, và từng thoi thóp của dân tộc mình.
2- Đảng trong nước, nhân sự liên kết trong và ngoài nước: Ai là thủ lĩnh? Một trong những người đã đấu tranh công khai trong nước là thủ lĩnh. CS đè bẹp cái rẹt. Vậy thủ lĩnh phải ở nước ngoài. Trên lý thuyết giải pháp này ok, nhưng thực tế anh em chịu tù, chịu tội, chịu đàn áp, khó khăn, “kinh nghiệm đầy mình” liệu chấp nhận ai ở nước ngoài đủ sức lãnh đạo họ. Về phía nhân dân liệu họ có tin cái đảng này không? Hoặc, nếu không cần thủ lĩnh, cùng nhau làm việc thì liên kết làm chi!
3- Đảng trong nước, nhân sự bí mật: Giải pháp này có vẻ ưu việt. Đương nhiên nhân vật bí mật là thủ lĩnh trên lý thuyết, nhưng thực chất tất cả anh em đấu tranh trong nước cùng làm, cùng ủng hộ đảng này, thì mới lôi cuốn được người dân. Khả thi, tuy nhiên, khi đã có bí mật thì đòi hỏi thành phần chủ chốt tham gia phải nghĩ ra cách liên lạc bí mật, không thể đối diện trực tiếp được. Chắc chắn phải sử dụng đến công nghệ vì vậy nó đòi hỏi khả năng người tham gia, rất giỏi vi tính, công nghệ thông tin để vượt qua sự kiểm soát của CS.
4- Đảng vô hình hoặc website lãnh đạo: Mô hình mà chúng ta đang thực hiện. Đang thích hợp với xã hội VN nhất, đẩy mạnh vai trò của các nhóm nhỏ cùng hoạt động. Về lâu dài, nó vẫn mang tính chất du kích. Tuy nhiên nếu biết cách khai thác, tổ chức, ứng dụng công nghệ, giải pháp này vẫn nhiều triển vọng nhất.
Nhìn chung giải pháp 3&4 khả thi nhất, tuy nhiên đòi hỏi khả năng cao về công nghệ của thành phần hạt nhân.
Không thể liên kết các nhóm, tổ chức với nhau:
Không thể thiết lập liên kết giữa trí thức với công nhân, giữa blogger và dân oan, thậm chí giữa các nhóm dân oan với nhau... Bởi vì CS diệt từ trong trứng nước và cấu trúc phường xã, làng xóm rất dễ phát hiện người lạ. Như vậy chỉ có thể đấu tranh trên cơ sở “không liên kết nhưng thành công”, thực tế cho thấy giải pháp này vẫn khả thi, nhờ sử dụng xa lộ thông tin. Bên cạnh đó, hoạt động bí mật, cũng đang là giải pháp tốt mà các nhóm đang nhắm đến. Hiện tại CS đang nới lỏng một chút để xin vào TPP, các cá nhân, nhóm, tranh thủ liên kết với nhau, thiết lập những chương trình chiến lược, không biết tình trạng này sẽ kéo dài được bao lâu?
Liệu có Thiên An Môn VN không? 
Do đó, nhiều người sẽ tự hỏi? Khi đã tập hợp được quần chúng rồi, liệu có Thiên An Môn VN không? Theo tôi: Không! Vì sao?
Thứ nhất: Đảng CSVN sẽ thay đổi khi nhìn thấy “gió đã xoay chiều”.
Căn cứ vào bản chất và đặc tính lưu manh xảo quyệt của CS như trên, CSVN sẽ không bao giờ để cho nhân dân lật đổ. Bản chất bảo vệ sự tồn vong của mình, ĐCSVN luôn luôn gắn kết keo sơn “16 chữ vàng và 4 tốt” với TC để tự bảo vệ mình, dù phải hèn hạ, luồn cúi, dù phải bán biển đảo. Nhưng khi đã bị nhân dân dồn đến đường cùng, nhìn thấy lực lương quần chúng đang lớn mạnh, sẽ đè bẹp mình CS sẽ thay đổi, cũng chỉ để bảo vệ sự tồn vong của đảng mà thôi. Thà đi theo nhân dân, ít nhất cũng còn lãnh đạo được 5-10 năm nữa. Còn đảng còn mình. Thà mất quyền lực, nhưng bảo vệ được tài sản còn hơn không! Đây là con tẩy chiến lược mà ĐCSVN đang ấp ủ, đang mơ mộng.
Rất tiếc, phong trào đấu tranh hiện nay chưa đủ mạnh nên chưa thay đổi được CS.
Thứ hai: Thiên An Môn tập hợp được đám đông nhờ vào yếu tố khách quan nhiều hơn là kết quả từ chiến lược và tổ chức.
Đầu tiên, địa điểm tập trung biểu tình: Quảng trường, công viên, không bao giờ là địa chỉ thích hợp đấu tranh trong XHCS, bởi vì nó không tạo được vũ khí xã hội, không làm tê liệt xã hội. Người biểu tình tập trung 1 tháng mà không gây suy yếu đảng, để đảng phản công lại là thiếu kế hoạch chuẩn bị lâu dài từ trước đó. Vẫn mang tính chất tự phát nhiều hơn. Nếu tập trung, bao vây đài truyền hình Bắc kinh, hoặc nhà ga trung tâm, hoặc cổng vào sân bay quốc tế 1 tháng, thử hỏi việc gì sẽ xảy ra?
Nhân dịp Mikhail Gorbachev đến thăm Bắc Kinh, và đám tang Hồ Diệu Bang cho nên chính quyền Bắc Kinh không đàn áp biểu tình, do đó số lượng người tham gia mới tăng lên 1000000 người trong một tháng. Trước đó, phong trào cũng chỉ là những cuộc biểu tình nhỏ lẽ, chưa tập trung được số lượng nhiều như vậy. Để thấy rằng cuộc đấu tranh phản kháng phải dồn ép chính quyền suy yếu dần, suy yếu dần, đến một lúc nào đó, chỉ cần đẩy tay là nó sụp đổ, chứ không phải có đám đông thì chính quyền sẽ sụp đổ, đám đông nhưng không có lực, không có tổ chức thì không giá trị bao nhiêu. Đó là đám đông may rủi, có giá trị trong xã hội dân chủ, không có giá trị trong xã hội CS tàn ác. Đám đông phải tạo được vũ khí xã hội. Đám đông phải tăng dần, tăng dần, qua quá trình đấu tranh, làm cho chính quyền sợ hãi, lùi bước dần, nhượng bộ dần... Thực tế, trước Thiên An Môn nhân dân Trung quốc chưa làm suy yếu chính quyền Bắc Kinh, chưa là đối kháng ngang ngửa với Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ. Cho nên phong trào vẫn mang dáng dấp tự phát, lợi dụng khách quan nhiều hơn và chưa có sự chuẩn bị chu đáo trước.
Thứ ba: Thành phần trí thức lề đảng, thành phần có công và lão thành CMVN, lúc này đang nằm im, dù biết đang bị lừa, vì bản chất vẫn là CS, cho nên chờ khi thập tử nhất sinh mới xuất hiện. Khi đó ĐCSVN không thể diệt thành phần này.
Qua đó chúng ta rút ra được bài học gì? CS, chế độ độc tài bản chất tàn ác, sẵn sàng giết người hàng loạt để bảo vệ ý thức hệ ngông cuồng của mình, đấu tranh phải có tổ chức, chiến lược, chiến thuật để chủ động trên bàn cờ chính trị. Phong trào đấu tranh như đống củi được phơi khô, phơi khô, đến một dịp thích hợp nó sẽ bùng cháy. Que củi còn ướt có cháy cũng tắt liền. Yếu tố khách quan chỉ được sử dụng khi chúng ta đã có đủ lực, còn không, phải bảo vệ lực lượng. Có chiến thuật tốt sẽ thành công.
Kết luận:
Hiện tại, CSVN đang bị 2 gọng kìm:
- Nhân dân đang xem đảng là bán nước,
- Trên bình diện quốc tế bị tấn công vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Nếu chúng ta huy đông được quần chúng vượt qua sợ hãi, vùng lên đấu tranh, tạo gọng kìm thứ 3, tương lai thành công không khó.
Vượt qua sợ hãi
Như vậy, làm sao giúp nhân dân vượt qua sợ hãi là ưu tiên số 1, giải pháp hàng đầu trong phong trào đấu tranh dân chủ VN hiện nay. Một đảng đối lập ư? Đảng đó có quy tụ được quần chúng không? Tôi e rằng không? Vì sao? Hãy nhìn các cuộc biểu tình, tham gia biểu tình dưới danh nghĩa trá hình hội này, đoàn nọ, đòi đất đai, đòi chống xâm lược, đòi thay đổi, HS-TS là của VN, rất nhẹ nhàng, đúng hoàn toàn... mà số lượng hưởng ứng quá giới hạn. Thử hỏi, đứng lên biểu tình trên danh nghĩa Đảng A, Đảng B nào đó, ai tham gia? Hãy dành cho tương lai. Người Việt sợ đảng lắm rồi, dù bất kỳ là đảng nào, họ chỉ cần ngày có 3 bữa cơm, điện thoại di động, internet chơi game dù biết rằng phải lật đổ ĐCS mới yên thân. Nghĩa là chúng ta chưa tìm ra cách để huy động họ, chứ không phải có đảng đối lập mới huy động được họ.
Như trên đã nói, có vẻ quần chúng không mặn nồng lắm với phong trào dân chủ. Có vẻ “dị ứng” với phong trào đấu tranh, nó chỉ có giá trị trên web. Tôi không hiểu tại sao? Chúng ta chưa đánh động đúng trái tim, nguyện vọng của họ ư? Có lẻ chúng ta phải đi vào cuộc sống thiết thực của người dân mới thành công. Ngày nay, Thế giới phẳng, khái niệm dân tộc, đất nước có vẻ mơ hồ. Ở Mỹ có McDonalds, ở đây cũng có McDonalds, ở Canada có Iphone 5 ở đây cũng vậy. Họ cảm thấy ở đâu cũng như nhau, ở đâu cũng phải làm mới có ăn. Ở VN ăn chơi sướng hơn, biết rằng kiếp sống nô lệ đó, biết rằng mất đất đó, biết rằng bất công đó, nhưng không phải mình. Chẳng sao?
Vậy thì phong trào dân chủ chưa đi vào cuộc sống của người dân. Phải nghiên cứu vấn đề này nếu không muốn thất bại. Phải tác động đến xã hội từ những việc rất đơn giản, biểu tình vì cơm áo gạo tiền, tương lai con cái, sở hữu cá nhân, gần gũi với người dân... để giúp họ vượt qua sợ hãi. Chúng ta phải tìm đến họ, chứ không phải ngồi chờ họ tìm đến ta, nếu không muốn trở thành “thuộc địa Cộng sản”.
Sài Gòn
2/7/2014

Trung Quốc đẩy mạnh cuộc chiến Biển Đông

Trung Quốc triển khai chiến trường Biển Đông, với sự hợp tác nội ứng, ngoại hợp cùng nhau tập kết thành một đoàn binh phá tanh bành trong lòng đất nước Việt Nam, và đã xuất hiện những hành động không còn dè dặt như trước đây, Việt Nam chính thức mời Trung Quốc tăng cường chiến đấu cơ Hựu Hướng (又向) kiểm soát vòm trời lãnh hải Việt Nam, bằng ngôn ngữ ngoại giao bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981. [1]

Trung Quốc triển khai những chiến đấu cơ Hựu Hướng (又向) 
từ đảo Hải Nam vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam 
để hộ tống HD981. Nguồn: Tân Hoa Xã. [2]
Tất nhiên thế giới không thể chấp nhận hành động của Trung Quốc, đơn phương mở cuộc hải chiến tại Biển Đông, bởi nhiều lý do khác, cuối cùng Trung Quốc xoay chiều lập mưu cơ hội, phóng ra kế hoạch "越南战争的协议" (chiến tranh thỏa thuận với Việt Nam). Đưa giàn khoan xâm nhập vào đường xương sống, thuận tay cướp biển với tên gọi mềm "thanh tra dầu khí và thủy sản".
Theo tin của một đảng viên cao cấp xin giấu tên, tiết lộ:
- Ngày 28 tháng 5/2014. Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam, lấy quyết định đẩy mạnh, hợp tác bên ngoài nhằm duy trì quyền lực bên trong, trong cơ bản "Bác" đảng chấp thuận cho phép giàn khoan HD981 hoạt động "toàn diện" lãnh hải từ 10-12 hải lý.
Những nhận định từ nhiều nguồn tin thông thạo:
Trung tâm tuyền thông Thẩm Quyến cho biết: [3]
- "...Trao đổi giữa hai đảng VN-TQ. Theo phía Việt Nam chấp thuận Trung Quốc mở chiến tranh mềm, âm thầm khai thác mở rộng vùng Biển Đông. Tuy nhiên bảo đảm uy tín sống còn của "Bác" đảng. Trung Quốc ok "...Tiến hành khai thác "toàn diện" chiếu theo những đồng thuận trong phạm trù của 10 hiệp ước và tuyên bố chung, giữa ông Trương Tấn Sang (张先生) nhân danh nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với ông Tập Cận Bình (习近平) nhân danh Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, Chủ tịch Quân ủy Trung ương của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vào ngày 19 tháng 6/2013". (中国只允许悄然扩大中国南海. 对比中国, 以确保越南共产党的生存. 中国与下10类协议和张庭谭先生之间的联合声明的综合开发协议代表桑代表越南社会主义共和国国家与习近平(习近平)的中国人民共和国, 中国人民共和国中央军事委员会主席的主席. 5月19日二千零一十三分之六).
Ngày nay, giàn khoan HD981, tung hoành theo 10 hiệp ước đã quy định, trong những văn kiện đặt nặng về khai thác "toàn diện" (综合), người Hán hiểu theo nghĩa đen "Việt Nam nhượng Biển Đông cho Trung Quốc", một cụm từ lững lờ đồng tình nghĩa bán nước, đưa Việt Nam vào tai họa vong quốc.[4] Ngoài ra còn nhiều "văn kiện hợp tác kinh tế" khác, chưa cơ hội công bố. Sau khi, mực chữ ký còn óng ánh, họ đã thực hiện trước giờ hiệu lực của văn kiện, Trung Quốc đã tiến hành khai thác nhanh "toàn diện", những binh đoàn lao động xua quân tiến vào lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, trên ba lô còn nguyên nhãn hiệu phục viên.
Tối thiểu phía đảng và nhà nước Việt Nam đều được biết trước mọi sự hoạt động của Trung Quốc, chiếu theo 10 hiệp ước đã ký kết, thông qua tiến trình khai thác. Trung Quốc không phải tự nhiên hay tùy tiện vào lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, bởi công pháp luật biển quốc tế.
Nay "Bác" đảng chính thức mời địch vào nhà, chấp nhận mất nước qua chiến thuật chiến tranh nguội, một các nói người dân Việt Nam thường loan tin "thà mất nước không để mất đảng". Hiển nhiên "Bác" đảng chấp cánh, đồng hành thái độ ngang ngược của HD981.
Giờ đây "Bác" đảng thêm bệnh trầm kha quốc nạn tham nhũng, lại chưa hài lòng bán nốt biên giới, biển, rừng, vẫn chưa đạt toại nguyện làm chư hầu "16 chữ vàng và 4 tốt", biến đất nước Việt Nam hết sinh lực bảo vệ tổ quốc, và tài chính do Trung Quốc nắm trọn gói, tiền đâu mà mua súng đạn để đối đầu, chiến tranh nóng với địch. Mặt khác "Bác" đảng chưa hề từ bỏ cá tính dối trá đối với nhân dân, vẫn mải mê cố vận dụng dối trá cỏn con hầu tránh né dư luận từ mọi phía, trong ngoài nước và quốc tế. "Bác" đảng muốn tạo dựng một vị thế đứng vững trước bão táp, và hy vọng không có dấu hiệu nào lay động sợi râu thừa của "Bác" đảng. [5]
Đã đến lúc hay chưa, cần đặt lại những vấn đề tác động xã hội của "Bác" đảng, cố ý cài đặt từ ngoại lai "Cộng sản" đến Khổng Tử đưa vào đảng, cấy sâu vào văn hóa Việt Nam, với ý đồ kích động lòng dân duy nhất yêu đảng, càng không nên mượn người dân áp dụng vào giáo dục khủng bố, càng không thể đẩy người dân đến chỗ công cụ, làm vật tế thần cho lá cờ "Bác" đảng, tất cả công thức đó đã sai lầm quá lớn. "Bác" muốn "mười năm trồng cây, trăm năm trồng người", thuận tay đẩy đất nước này vào chốn bần cùng, nô lệ, Mao từng nói: "thập niên thụ mộc, chủng thực bách niên nhân" (十年树木,种植百年人). Từ đó nhân dân Việt Nam đã trải qua 74 năm bị lừa bịp, sống trong sự dồi dào dối trá, cho đến bây giờ dân tộc Việt Nam băng hoại chưa biết khi nào thức tỉnh. "Bác" đảng đã thắng cuộc, truy đuổi dân tộc Việt Nam vào bước cuối ngưỡng cửa mất nước. Thậm chí Việt Nam hiện nay không khác con nghiện tàn phế, bệnh hoạn, kéo dài lê thê gần hết trăm năm, đất nước hoàn toàn mất tính lương thiện, mất tất cả quyền sống được hưởng tự do, dân chủ đích thực, làm công dân một đất nước tình cảm kỳ lạ "nặng tình đảng, nhẹ tình nước", với tính xấu ấy thường bị thụ động, chờ đợi, thiếu am tường chính trị, không chú ý những hệ lụy do chế độ đánh đổ, khai tử truyền thống "bảo cổ, canh tân" của xứ sở, thờ ơ, mau quên sự kiện lịch sử quá khứ, hiện tại và mai sau, như Hội nghị Thành Đô ngày 3 tháng 9-1990, và 10 hiệp ước "toàn diện" ngày 19 tháng 6 năm 2013, được xem đất nước Việt Nam đã sang tay cho Trung Quốc.
Những nguyên nhân trên, do đảng cộng sản Việt Nam xây dựng một xã hội rã bầy, sợ hãi. Ở thế kỷ trí tuệ, nếu không thoát đảng cộng sản, nhất định muôn đời sau nô lệ và hết hy vọng tạo dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, bởi thế giới ngày nay là một hạt giống phi thường, con người sống trong một không gian chung.
Hậu quả trên, đưa đất nước tan rã dân trí, mất biển Đông và lãnh thổ biên giới Tây, Đông Bắc, đảng cộng sản phải thú tội bán nước, và nhường lại vị trí lãnh đạo quốc gia cho nhân dân tự quyết. "Bác" đảng một nguồn máy quốc nạn tham nhũng, khả năng lãnh đạo quốc gia không có, cho nên giặc đã vào nhà Việt Nam đảng vẫn ngơ ngáo, thậm chí không có khả năng xác định vị trí địch quân xâm lăng nơi nào, và từ đó Trung Quốc khám phá được 10 hiệp ước khai thác "toàn diện" làm chiến lược, không khác nào "Bác" đảng mở cửa mời Trung Quốc đưa những giàn khoan vào sâu lãnh hải, một kỹ thuật xâm chiếm Biển Đông không cần thuốc súng. [6]
Đảng cộng sản VN, tạo thời cơ cho Trung Quốc tăng tốc tái độ ngang ngược, tự qui định đường lưỡi bò trong hải phận biển Đông Việt Nam, với đường hàng hải phi lý, cấm tàu Hải quân, thuyền đánh bắt cá Việt Nam đến gần giàn khoan HD981, từ 25 đến 30 dặm. Đặc biệt hơn, Trung Quốc cảnh cáo Việt Nam phải thực thi chấp pháp! (执法) nếu không sẽ mở màn đâm chìm tàu, tất nhiên kẻ yếu bị thiệt hại, và Trung Quốc đe dọa trừng phạt Việt Nam bằng vũ lực, mở kho thuốc súng chiến tranh nóng! [7]
Trung Quốc lên kế hoạch kỹ thuật chiến tranh biển Đông. 
Nguồn: Hồng Tam Quân (红三军).
Trung Quốc không còn dè dặt mở chiến trường biển với tham vọng chiếm Biển Đông. Hầu hết vũ khí, thuốc súng đã lên nòng, mọi tham chiến gồm có cả hải quân, không quân, cảnh sát biển, hàng hải, đội quân thủy sản, tàu kéo, tàu rà mìn, tàu thép đánh cá, tàu dầu, ngư chính xây lũy biển, lập tuyến phòng thủ, chướng ngại vật, cản trở, ngăn chận ngư dân, chủ yếu loại trừ Việt Nam ra khỏi Biển Đông và ngư dân Việt Nam là mối đe dọa cho Trung Quốc. Mặc khác, Trung Quốc phối trí lực lượng chiến đấu tại Biển Đông, gồm quân đội Hải quân, Không quân thuộc nhóm "bánh xe biển 1". Thuyền ngư dân, nhóm "bánh xe biển 2", khi có lệnh thi nhau tấn công, nếu tàu thuyền Việt Nam không tuân lệnh, khoảng cách giàn khoan HD981 đã định sẽ bị nhận lãnh "đấm chìm". [7]
Bắc Kinh không ngần ngại, chỉ thị lực lượng Biển mở trước sức mạnh tấn công, bảo vệ nhiều giàn khoan di chuyển vào lãnh hải của Việt Nam. Chiến thuật của Trung Quốc hiện nay sử dụng ngư thuyền khiêu khích, tàu chiến đóng trụ, hoạt động trên biển không ấn định hải lý, bộ chỉ huy chiến dịch Biển Đông đặt tại đảo Nam Hải đang triển khai chiến đấu cơ, nâng cấp phi vụ, bảo vệ trên không và phong tỏa mọi tiếp cận HD981, từ phía Việt Nam. [8]
Trung Quốc huy động lực lượng Hải quân, dàn hàng ngang 
tạo một thành lũy kiên cố, kiểm soát nghiêm mật 
không để một "Yết Kiêu" nào tiếp cận quanh 
khu vực giàn khoan HD981. Nguồn: Hồng Tam Quân (红三军).
Không phải hôm nay HD981 mới vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc đã công khai di chuyển giàn khoan HD981 ngoài khơi vùng biển Việt Nam từ đầu năm 2014. Mỗi khi xuất hiện HD981 có hàng chục tàu thuyền vũ trang, tàu chiến và chiến đấu cơ hộ tống. Đảng cộng sản VN thừa biết điều này, chỉ có nhân dân VN biết quá muộn màng. [9]
Trung Quốc quyết định đánh chiếm Biển Đông, tập trung quân lực trên không dưới biển. 
Nguồn: Trung tâm miền Nam Hoàng Sa 西路嘉.
Trung Quốc có thái độ ngạo mạn, mở liên tục các cuộc tấn công bằng chiến đấu cơ, dưới biển dùng vòi rồng nước áp suất cực mạnh, trực tiếp phá hoại tàu thuyền quân sự và tàu thuyền ngư dân Việt Nam, làm thiệt hại nhiều tàu và người bị thương. Tàu chiến Trung Quốc bao vây, kiểm soát, rượt đuổi, thậm chí ngư dân bị thương đe dọa sống còn.
Gần đây, tàu ngư dân Việt Nam, mang số 11209 đăng ký tại Đà Nẵng, đang hoạt động đánh bắt cá trong vùng ngư trường truyền thống tại quần đảo Hoàng Sa, bỗng nhiên bị ngư chính Trung Quốc đánh chìm. Nhân dân Việt Nam quá thất vọng "Bác" đảng và nhà nước không có trách nhiệm nào đối với ngư dân, trái lại "Bác" đảng có cách nhìn đặc biệt ngơ ngáo, thờ ơ, bàng quan, thậm chí "Bác" đảng còn vinh danh phe địch quân "tàu lạ", người lạ". Và Đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thể hiện bàng quan, tuyên bố tại diễn đàn "13e Dialogue Shangri-La ở Singapore", ngày 30 tháng 5 năm 2014, trích nguyên văn: [10]
"...bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang phát triển tốt đẹp" ngoại trừ vấn đề tranh chấp tại Biển Đông, đôi khi cũng có những lúc "va chạm căng thẳng".
Phùng Quang Thanh (冯光青) tuyên bố lời trên với tư cách một sĩ quan cao cấp của Học viện Quân sự Nam Kinh (南京军事学院), hơn là bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, ông tuyên bố tiếp:
"...ngay cả các thành viên trong cùng một gia đình cũng còn có những mâu thuẫn huống chi là giữa các nước như Trung Quốc và Việt Nam".
Phùng Quang Thanh gửi thông điệp đầu hàng Trung Quốc và khẳng định trước diễn đàn Shangri-La: "Trung Quốc nước bạn láng giềng".
Phùng Quang Thanh ăn nói lộng ngữ, những lời tuyên bố trên hoàn toàn đi ngược lại với phát biểu của hai đại diện của Nhật và Mỹ, đang quan tâm và lo ngại về tình hình Biển Đông, đang có những kế hoạch nhằm đối phó với những hoạt động đi ngược lại công pháp quốc tế của Trung Quốc. Theo bộ trưởng quốc phòng của Việt Nam, quốc gia đang trực tiếp phải đương đầu với Trung Quốc, cho rằng: "những việc làm của Trung Quốc không đáng quan ngại, bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đang phát triển tốt đẹp, hai nước vẫn là "bạn láng giềng". Thất vọng một đại tướng Việt Nam ôm gối 16 chữ vàng ngủ say thành mộng hồn con sai dịch của Trung Quốc.
Ngư chính bảo vệ giàn khoan HD981. 
Nguồn: Trung tâm chiến lược miền Đông Trung Quốc.
Tin chính thức, cuối tháng 5 năm 2014. Trung Quốc di chuyển giàn khoan HD981 đến lãnh hải Biển Đông của Việt Nam, độ phút 33,38 vĩ độ Bắc, và 15 độ phút 34.62 Đông kinh độ phối hợp vị trí 111, phía Đông khoảng cách quần đảo Hoàng Sa 25 hải lý theo hướng Đông Nam. Tàu chiến Trung Quốc chia thành hai nhóm, bảo vệ các giàn khoan và HD981, Trung Quốc còn bổ sung lực lượng và duy trì 120 tàu, trong đó có 36 ngư chính, 13 tàu kéo, 14 tàu vận tải, 7 tàu chiến, trên giàn khoan trang bị đài quan sát chiều cao 1000-1100 mét, ngoài ra còn huy động bốn chiến đấu cơ, Trung Quốc tiếp tục vi phạm quyền tài phán quốc gia của Việt Nam và các quyền đã qui định luật biển công pháp quốc tế.
Đồng thời gian, Trung Quốc truyền lệnh cảnh sát biển bảo vệ mạch máu của HD981, ngăn cấm các tàu Việt Nam tiếp cận. Có những đêm, từ 6 đến 8 tàu Trung Quốc trang bị súng, vòi rồng, tắt đèn đổ bộ người nhái vào gần bờ, phá hủy những chiếc phao nổi của Hải quân Việt Nam, trong số đó có tàu cảnh sát biển, mang biển số 840 và tàu quét mìn 843.
Tàu Trung Quốc săn đuổi, đâm chìm thuyền của ngư dân Việt Nam. 
Nguồn: Hồng Tam Quân (红三军).
Trung Quốc tiêm thuốc ngủ "Bác đảng CS" loang nhanh vào cơ thể Việt Nam, còn hứa hẹn tạo mọi điều kiện cướp chính quyền, sáng lập chế độ riêng, bảo đảm an ninh lãnh thổ, lãnh hải, dần dà Việt Nam nhu nhược. Đến nay thì đã khác, Trung Quốc thừa cơ hội thực hiện tham vọng cướp Biển Đông. "Bác" đảng vẫn còn ngủ say, tiếp nhận thêm lời hứa của Trung Quốc:
"− Nếu cần thiết, cắt đứt sản xuất dầu khí ở Trung Đông hay đặt sang một bên. Nay thăm dò dầu khí ở Biển Đông là chính, Việt Nam được xem "Vịnh Ba Tư thứ hai", có "ống quặng năng lượng" giàu nhất Châu Á, Việt Nam nhất định huy hoàng". (如果有必要, 削减石油产量在中东地区,并预留. 现在, 石油和天然气勘探在中国南海是主要的, 越南被认为是 "波斯湾星期一", "管道矿石能源" 亚洲最富有, 最越南消灭). Thảo nào "Bác" đảng đứng đầu quốc nạn tham nhũng, chấp nhận dâng hiến đất nước Việt Nam cho Trung Quốc!
Thế giới đứng ngoài cuộc, thấy rõ ràng dân tộc Việt Nam đã đứng trước phá sản, mới có nhà nước nhu nhược, cho phép lân bang Trung Quốc đè bẹp dân tộc mình mà không hề sợ người Hán đã từng hòa tan trên 100 quốc gia lớn nhỏ, đem những lãnh thổ đó về một Đại Lục. Ngày nay, nếu Việt Nam chần chờ không thoát Trung, nhất định cùng chung số phận 101 vô tổ quốc. Nhân dân Việt Nam chấp nhận hay từ chối hòa tan vào Trung Quốc chỉ ở thời điểm này.
Chưa chi, ông Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì thay mặt Trung Quốc chửi tưới vào mặt đảng cộng sản của "Bác", và nhân dân Việt Nam, theo lời tuyên bố ngoại giao thắng lợi, nguyên lưỡi: "中国的热情饲料流浪狗越南, 希望堆肥,可以 "变身岸", 因为大家都是英里的-Trung Quốc nhiệt tâm nuôi con chó hoang việt nam [11], muốn phản ư, hãy "quây đầu là bờ", bởi ta là chủ của mi".
Ở thời điểm này, muốn thoát Trung Quốc, dân tộc Việt Nam phải có nhiều tổ chức xứng đáng đối trọng với đảng cộng sản, ít nhất những tổ chức đó phải có tư tưởng chính trị dân chủ, đa nguyện để người dân chấp nhận được, bằng không Trung Quốc xem thường dân tộc Việt Nam và tiếp tục nuôi "Bác" đảng sống dai như đỉa.